Góp Ý: Cần Tuợng Đài Tuởng Niệm Các Tuớng Tuẫn Tiếât Tháng 4
Chu Tất Tíến
Từ hơn 10 năm nay, khi sinh hoạt chính trị của cộng đồng nguời Việt trở nên mạnh mẽ với sự đoàn kết và tham gia của đông đảo đồng bào ở khắp nơi, cũng như sự tíêp tay tích cực của các giới chức chính trị của dòng chính Hoa Kỳ cũng như ở các quốc gia khác, nhiều tuợng đài đã đuợc xây dựng đồ sộ và oai nghi. Từ tuợng đài Thuyền Nhân ở Canada, đến tuợng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, và gần đây, tuợng đài Thuyền Nhân ở Westminster; những tuợng đài này không những đã đem lại vinh dự cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại, còn là dấu vết Văn Hoá Việt trên thế giới, là sự chuyển tiếp đến thế hệ sau những thông điệp về cuộc chiến Việt Nam, về nguyên nhân của sự hiện diện của cộng đồng Việt, và đồng thời, là chứng tích tội ác của chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ 20-21. Riêng tuợng đài Chíên Sĩ Việt Mỹ còn mang thêm một ý nghĩa cao cả đặc biệt: Sự Dũng Cảm Hy Sinh của Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà trong khi Chíên Đấu cho Tự Do và Dân Chủ. Một vị Tuớng Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ đã tuyên bố: “Các chíên sĩ Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu như con Sư Tử” và khẳng định rằng Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà anh dũng không thua bất cứ một Quân Đội hùng mạnh nào trên thế giới.
Nhiều huy chuơng về sự Dũng Cảm đã đụơc trao tặng cho các cựu quân nhân Quân Đội miền Nam, ngay cả sau khi nguời Việt di tản đã hội nhập tốt đẹp với đời sống mới.
Một Sĩ Quan Không Quân đụơc Thuợng Nghị Viện Hoa Kỳ bảo lãnh đặc biệt vì sự hào hùng của ông khi chấp nhận cả hai tay bị đốt cháy nhưng không chịu bỏ bạn lại chíên truờng. Có lẽ ông là nguời thuơng binh Việt duy nhất trong lịch sử Quân Đội Hoa Kỳ đụợc đón tiếp bằng hai hàng lính chào danh dự lúc ông buớc xuống máy bay, mặc dù ông chỉ còn là một nguời không còn cấp bậc của chế độ cũ. Một Sĩ Quan nhẩy dù khác cũng đụơc đích thân Tổng Thống Hoa Kỳ gắn huy chuơng anh dũng tại tòa Bạch Ốc, sau khi ông đã đụơc bảo lãnh đặc biệt để rời Việt Nam. Nhiều tên tuổi các Sĩ quan khác cũng đụơc vinh dự nêu lên trong nhiều cuộc thảo luận về cuộc chiến Hiện nay, lá cờ vàng ba sọc đỏ đuợc uy nghi bay trong gió, truớc nhiều toà nhà Quốc Hội Tiểu Bang, thành phố, truờng Đại Học, cũng vì sự kính trọng cuộc chiến anh hùng đẫm máu của quân dân miền Nam.
Trên hết tất cả, là những tấm guơng bất khuất, anh dũng phi thuờng của năm vị tuớng lãnh đã tuẫn tiết trong những ngày cuối tháng Tư Đen.
Thực tế, lịch sử thế giới đã nhiều lần ghi lại các cuộc tuẫn tiết của nhiều lãnh tụ, nhiều quân nhân sau khi thất trận. Trong thế chiến thứ Hai, nguời Nhật đã làm thế giới khâm phục khi họ can đảm liều mình bằng phuơng thức Kamikaze, lao thẳng phi cơ xuống tầu kẻ địch. Khi nghe tin Nhật Hoàng đầu hàng, nhiều đơn vị đã đồng loạt tự sát theo kiểu Hara Kiri, dùng dao ngắn mổ bụng. Trong các trận đánh tuyệt vọng gần quê huơng, họ đã làm cho các đơn vị tấn công phải hao tổn nhân mạng một cách khủng khiếp khi họ liều chết chống chọi đến hơi thở cuối cùng.
Nhưng, những tấm guơng can đảm kia không thể so sánh với sự dũng cảm của quân đội Việt Nam, khi đa số những nguời tự sát ở nuớc ngoài kia chỉ là những sĩ quan và binh sĩ cấp nhỏ. Hầu như các tuớng lãnh của các đội quân thua trận đều chấp nhận đầu hàng, chỉ một hay hai vị hy sinh đơn lẻ. Còn với Việt Nam, trong những ngày tháng cuối cùng của trận chiến, nhiều chiến sĩ đã cho lựu đạn nổ tung trên tay. Nhiều chiến sĩ khác đã đơn độc chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Một Thiếu Tá Cảnh Sát đã đứng nghiêm chào bức tượng Chiến Sĩ Vô Danh rồi tự bắn vào đầu mình. Anh Hùng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắn đến viên đạn chót, sau đó, khi bị dẫn ra cọc hành hình, nguời anh hùng này đã hô to lần chót câu tuyên ngôn ngàn đời: “Việt Nam muôn năm!”
Và, một điều mà lịch sử thế giới đã bàng hoàng ghi lại và sẽ lưu trữ đến muôn thế hệ sau, là có tới Năm vị Tuớng Lãnh của Quân Đội Việt Nam đã oai dũng vĩnh biệt quê huơng khi nhận biết rằng quê huơng sẽ phải sống duới chế độ tàn ác, sắt máu của Cộng Sản, mà chính bản thân mình đã không còn khả năng để bảo vệ. “Làm Tuớng mà không giữ đụơc nuớc, phải chết theo nuớc!” Những lời tâm huyết đầy tính Việt Nam, mang âm huởng của Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo…này đã sang sảng vang lên trong không trung bất tận. Và, dòng máu của các Đấng Anh Hùng này đã mãi mãi thấm vào lịch sử để nhân loại thấy rằng, chỉ có con cháu của các Vua Hùng mới oanh oanh, liệt liệt như thế. Không một quốc gia nào có tới Năm vị Tuớng Lãnh cùng tuẫn tiết một lúc. Không một dân tộc nào ghi dấu đuợc Năm vị Tư Lệnh Quân Đội đã thản nhiên từ giã thế giới để trở về với đất Tổ một cách an nhiên, sau khi đã chíên đấu bằng hết sức mình.
Vì thế, một Tuợng Đài Danh Dự để tuởng niệm Năm Vị Anh Hùng Dân Tộc này cần phải đuợc dựng lên, oai nghi, không cần vĩ đại về tầm vóc, về diện tích, nhưng sẽ vĩ đại với tên của các Ngài đời đời, kiếp kiếp tồn tại với mai sau. Không cần kiến trúc cầu kỳ, chỉ cần một bức tuờng đá có khảm hình ảnh của năm vị Túơng Lãnh và một cây đuốc sáng mãi với thời gian cũng đủ cho hai chữ Việt Nam ngời sáng. Những giòng máu Anh Hùng của các Ngài phải đuợc tôn sùng trong sự đơn giản mà uy vũ.
Nhìn vào tuợng đài, cả thế giới sẽ phải kinh ngạc và kính phục. Nhìn vào tuợng đài, lớp trẻ sau này sẽ hiểu rằng ông cha họ là con cháu của những Anh Hùng hiếm có trong lịch sử. Khi cuộc chiến đấu cho Dân Chủ và Tự Do chưa thắng lợi, thì nhìn vào tuợng đài, tinh thần của các nguời tranh đấu sẽ vững vàng và tin tuởng hơn. Từ đó, những nguời lính chúng ta sẽ vinh dự làm tiếp công việc dang dở của các vị Tuớng Lãnh bất tử ấy cho đến ngày thành công: Bảo Vệ Quê Huơng Việt Nam khỏi ách đô hộ của độc tài Cộng Sản và Bảo Vệ Quê Huơng khỏi nạn nô lệ mới của thế kỷ 21, khỏi hoạ xâm lăng của Bắc Phuơng, điều mà từ bốn ngàn năm truớc, Vua Hùng và các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đã thực hiện. Những cặp mắt hiên ngang của các vị Tuớng Lãnh Anh Hùng này đang nhìn chúng ta đó.
Chu tất Tiến.
Chu Tất Tíến
Từ hơn 10 năm nay, khi sinh hoạt chính trị của cộng đồng nguời Việt trở nên mạnh mẽ với sự đoàn kết và tham gia của đông đảo đồng bào ở khắp nơi, cũng như sự tíêp tay tích cực của các giới chức chính trị của dòng chính Hoa Kỳ cũng như ở các quốc gia khác, nhiều tuợng đài đã đuợc xây dựng đồ sộ và oai nghi. Từ tuợng đài Thuyền Nhân ở Canada, đến tuợng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, và gần đây, tuợng đài Thuyền Nhân ở Westminster; những tuợng đài này không những đã đem lại vinh dự cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại, còn là dấu vết Văn Hoá Việt trên thế giới, là sự chuyển tiếp đến thế hệ sau những thông điệp về cuộc chiến Việt Nam, về nguyên nhân của sự hiện diện của cộng đồng Việt, và đồng thời, là chứng tích tội ác của chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ 20-21. Riêng tuợng đài Chíên Sĩ Việt Mỹ còn mang thêm một ý nghĩa cao cả đặc biệt: Sự Dũng Cảm Hy Sinh của Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà trong khi Chíên Đấu cho Tự Do và Dân Chủ. Một vị Tuớng Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ đã tuyên bố: “Các chíên sĩ Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu như con Sư Tử” và khẳng định rằng Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà anh dũng không thua bất cứ một Quân Đội hùng mạnh nào trên thế giới.
Nhiều huy chuơng về sự Dũng Cảm đã đụơc trao tặng cho các cựu quân nhân Quân Đội miền Nam, ngay cả sau khi nguời Việt di tản đã hội nhập tốt đẹp với đời sống mới.
Một Sĩ Quan Không Quân đụơc Thuợng Nghị Viện Hoa Kỳ bảo lãnh đặc biệt vì sự hào hùng của ông khi chấp nhận cả hai tay bị đốt cháy nhưng không chịu bỏ bạn lại chíên truờng. Có lẽ ông là nguời thuơng binh Việt duy nhất trong lịch sử Quân Đội Hoa Kỳ đụợc đón tiếp bằng hai hàng lính chào danh dự lúc ông buớc xuống máy bay, mặc dù ông chỉ còn là một nguời không còn cấp bậc của chế độ cũ. Một Sĩ Quan nhẩy dù khác cũng đụơc đích thân Tổng Thống Hoa Kỳ gắn huy chuơng anh dũng tại tòa Bạch Ốc, sau khi ông đã đụơc bảo lãnh đặc biệt để rời Việt Nam. Nhiều tên tuổi các Sĩ quan khác cũng đụơc vinh dự nêu lên trong nhiều cuộc thảo luận về cuộc chiến Hiện nay, lá cờ vàng ba sọc đỏ đuợc uy nghi bay trong gió, truớc nhiều toà nhà Quốc Hội Tiểu Bang, thành phố, truờng Đại Học, cũng vì sự kính trọng cuộc chiến anh hùng đẫm máu của quân dân miền Nam.
Trên hết tất cả, là những tấm guơng bất khuất, anh dũng phi thuờng của năm vị tuớng lãnh đã tuẫn tiết trong những ngày cuối tháng Tư Đen.
Thực tế, lịch sử thế giới đã nhiều lần ghi lại các cuộc tuẫn tiết của nhiều lãnh tụ, nhiều quân nhân sau khi thất trận. Trong thế chiến thứ Hai, nguời Nhật đã làm thế giới khâm phục khi họ can đảm liều mình bằng phuơng thức Kamikaze, lao thẳng phi cơ xuống tầu kẻ địch. Khi nghe tin Nhật Hoàng đầu hàng, nhiều đơn vị đã đồng loạt tự sát theo kiểu Hara Kiri, dùng dao ngắn mổ bụng. Trong các trận đánh tuyệt vọng gần quê huơng, họ đã làm cho các đơn vị tấn công phải hao tổn nhân mạng một cách khủng khiếp khi họ liều chết chống chọi đến hơi thở cuối cùng.
Nhưng, những tấm guơng can đảm kia không thể so sánh với sự dũng cảm của quân đội Việt Nam, khi đa số những nguời tự sát ở nuớc ngoài kia chỉ là những sĩ quan và binh sĩ cấp nhỏ. Hầu như các tuớng lãnh của các đội quân thua trận đều chấp nhận đầu hàng, chỉ một hay hai vị hy sinh đơn lẻ. Còn với Việt Nam, trong những ngày tháng cuối cùng của trận chiến, nhiều chiến sĩ đã cho lựu đạn nổ tung trên tay. Nhiều chiến sĩ khác đã đơn độc chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Một Thiếu Tá Cảnh Sát đã đứng nghiêm chào bức tượng Chiến Sĩ Vô Danh rồi tự bắn vào đầu mình. Anh Hùng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắn đến viên đạn chót, sau đó, khi bị dẫn ra cọc hành hình, nguời anh hùng này đã hô to lần chót câu tuyên ngôn ngàn đời: “Việt Nam muôn năm!”
Và, một điều mà lịch sử thế giới đã bàng hoàng ghi lại và sẽ lưu trữ đến muôn thế hệ sau, là có tới Năm vị Tuớng Lãnh của Quân Đội Việt Nam đã oai dũng vĩnh biệt quê huơng khi nhận biết rằng quê huơng sẽ phải sống duới chế độ tàn ác, sắt máu của Cộng Sản, mà chính bản thân mình đã không còn khả năng để bảo vệ. “Làm Tuớng mà không giữ đụơc nuớc, phải chết theo nuớc!” Những lời tâm huyết đầy tính Việt Nam, mang âm huởng của Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo…này đã sang sảng vang lên trong không trung bất tận. Và, dòng máu của các Đấng Anh Hùng này đã mãi mãi thấm vào lịch sử để nhân loại thấy rằng, chỉ có con cháu của các Vua Hùng mới oanh oanh, liệt liệt như thế. Không một quốc gia nào có tới Năm vị Tuớng Lãnh cùng tuẫn tiết một lúc. Không một dân tộc nào ghi dấu đuợc Năm vị Tư Lệnh Quân Đội đã thản nhiên từ giã thế giới để trở về với đất Tổ một cách an nhiên, sau khi đã chíên đấu bằng hết sức mình.
Vì thế, một Tuợng Đài Danh Dự để tuởng niệm Năm Vị Anh Hùng Dân Tộc này cần phải đuợc dựng lên, oai nghi, không cần vĩ đại về tầm vóc, về diện tích, nhưng sẽ vĩ đại với tên của các Ngài đời đời, kiếp kiếp tồn tại với mai sau. Không cần kiến trúc cầu kỳ, chỉ cần một bức tuờng đá có khảm hình ảnh của năm vị Túơng Lãnh và một cây đuốc sáng mãi với thời gian cũng đủ cho hai chữ Việt Nam ngời sáng. Những giòng máu Anh Hùng của các Ngài phải đuợc tôn sùng trong sự đơn giản mà uy vũ.
Nhìn vào tuợng đài, cả thế giới sẽ phải kinh ngạc và kính phục. Nhìn vào tuợng đài, lớp trẻ sau này sẽ hiểu rằng ông cha họ là con cháu của những Anh Hùng hiếm có trong lịch sử. Khi cuộc chiến đấu cho Dân Chủ và Tự Do chưa thắng lợi, thì nhìn vào tuợng đài, tinh thần của các nguời tranh đấu sẽ vững vàng và tin tuởng hơn. Từ đó, những nguời lính chúng ta sẽ vinh dự làm tiếp công việc dang dở của các vị Tuớng Lãnh bất tử ấy cho đến ngày thành công: Bảo Vệ Quê Huơng Việt Nam khỏi ách đô hộ của độc tài Cộng Sản và Bảo Vệ Quê Huơng khỏi nạn nô lệ mới của thế kỷ 21, khỏi hoạ xâm lăng của Bắc Phuơng, điều mà từ bốn ngàn năm truớc, Vua Hùng và các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đã thực hiện. Những cặp mắt hiên ngang của các vị Tuớng Lãnh Anh Hùng này đang nhìn chúng ta đó.
Chu tất Tiến.
Gửi ý kiến của bạn