Lúc đầu ông chỉ bị giam ở Long Bay, một nhà tù gần Sydney. Nhưng sau buổi tiệc tất niên năm 2002 diễn ra trong khuông viên nhà giam thì ông bị chuyển vào nhà tù kiên cố SuperMax. Truyền thông Úc tường thuật rằng chính ông đã tổ chức và quyết định ai được mời, ai không. Thức ăn do hai nhà hàng Trung Hoa ở Sydney cung cấp. Thực khách bao gồm nhiều nghị viên bạn của ông ở ngoài vào dự. Ở nhà tù SuperMax ông cũng bị đặc biệt chiếu cố một cách khắt khe. Lý do chỉ vì cai tù tìm thấy 3 đĩa hồ sơ chứa các chương trình học sử dụng máy PC trong phòng giam của ông.
Ông là một người Úc gốc Việt. Lúc bị bắt ông đang là nghị viên hội đồng thành phố Fairfield, một khu vực có đông người gốc Á Châu cư ngụ. Hội đồng thành phố là cơ cấu dân cử thấp nhất trong ba cấp chính quyền tại Úc, dưới tiểu bang và liên bang.
Người bị hạ sát là một dân biểu thuộc phe Lao Động của tiểu bang New South Wales (NSW). Ông John Newman bị bắn bằng súng ở tầm gần vào tối 5 tháng 9 năm 1994, ngay trước nhà ông tại Cabramatta. Đây là một khu vực tập trung nhiều người Việt thuộc hội đồng thành phố Fairfield.
Ông John Newman luôn lớn tiếng lên án các băng đảng gốc Á Châu trong vùng nên được coi là chiến sĩ chống tội phạm (crime fighter) trong khu vực này. Đặc biệt với những nhóm băng đảng gốc Việt thì ông đã tuyên bố họ xứng đáng được trả về những vùng rừng rú ở Việt Nam, nơi ông gọi là nguyên quán của họ.
Ông Ngô Cảnh Phương thì khác. Ông khá thân thiện với thành phần này. Ông đã công khai đi dự đám tang của một tay anh chị người Việt trong độ tuổi 20 ở khu Cabramatta khi anh ta bị giết trong một cuộc thanh toán giữa các băng đảng. Ông quen biết chính nạn nhân và gia đình của nạn nhân. Đó là một đám tang khá đặc biệt. Ngoài người nhà ra còn có rất đông báo chí và cảnh sát theo trông chừng.
Câu hỏi đặt ra là tại sao một người hoạt động chính trị đầy tương lai như vậy lại có quan hệ thân tình với thành phần bất hão trong xã hội"
Những người đã biết ông ở trại tỵ nạn thì không ngạc nhiên gì cả. Từ khi ở đảo tỵ nạn Bidong ông đã giao tiếp với mọi giới. Ông luôn sẳn lòng giúp đở người khác khi họ cần đến khả năng tiếng Anh của ông. Khi sang định cư tại Sydney ông vẫn tiếp tục giúp bạn bè hàng xóm hoặc người làm cùng hãng sau giờ làm việc. Thường ông giúp làm thông dịch viên, viết giùm lá thư hoặc điền giùm tờ đơn. Nhờ sống gần khu người Tàu ở Việt Nam nên ông nói được cả tiếng Quảng Đông, đủ để giao dịch với những người Việt gốc Tàu tại Úc.
Ông Ngô Cảnh Phương không chỉ thân thiện với giới sống bên lề của xã hội và pháp luật. Tất cả các lãnh tụ chính trị của cả liên bang lẫn tiểu bang, từ phe chính phủ đến đối lập đều muốn được xuất hiện bên cạnh ông. Họ xem ông là đại diện có uy tín của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Họ muốn được sự ủng hộ của ông.
Trong thực tế là ông Ngô Cảnh Phương chưa bao giờ nắm bất cứ một chức vụ gì trong cơ cấu cộng đồng người Việt ở Úc. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là ông có khả năng gây quĩ không ai sánh bằng.
Xin trích một vài câu đối đáp trong quốc hội NSW để thấy ảnh hưởng của ông Ngô Cảnh Phương với chính giới Úc. Cuộc đối chất này diễn ra trong quốc hội tiểu bang NSW vào năm 2002, khi ông Ngô Cảnh Phương đã vào tù.
Lúc ấy đảng Lao Động đang cầm quyền ở NSW. Phe đối lập, tức là đảng Tự Do, đã dùng chữ “kẻ mối lái quyền lực của đảng Lao Động NSW” để ám chỉ ông Ngô Cảnh Phương trong các câu hỏi đặt ra cho phe Lao Động. Nhưng phe Lao Động đã đáp lại bằng một loạt các câu hỏi khác: “Có phải đó là ông Phương đã chụp hình chung với lãnh tụ đảng Tự Do hay không"” “Có phải đó chính là ông Phương đã được lãnh tụ đảng Tự Do bổ nhiệm vào Ủy Ban Sắc Tộc Sự Vụ của NSW hay không"” “Có phải ông Phương đó là người đã tháp tùng bộ trưởng liên bang của đảng Tự Do trong các chuyến công du Việt Nam, Thái Lan, Hồng Kông hồi năm 1999 không"”
Tất cả những điều nêu trên đều có thật. Nói tóm lại, dù là người rất có ảnh hưởng của đảng Lao Động, ông Ngô Cảnh Phương cũng đồng thời có rất nhiều mối liên lạc với phe Liên Hiệp ở cấp tiểu bang lẫn liên bang. Lô đất xây trung tâm sinh hoạt và văn hoá của cộng đồng người Việt tự do hiện nay ở NSW là do kết quả vận động của ông Ngô Cảnh Phương.
Đặc biệt ông Ngô Cảnh Phương rất khéo léo với giới truyền thông Úc. Ông nói tiếng Anh chậm rãi, lưu loát và rất đúng sách giáo khoa. Ông có khả năng trả lời báo chí và truyền thông một cách rất thông minh, ôn tồn, dù bị hỏi dồn vào những tình huống khó khăn. Chỉ một lần người ta chứng kiến ông bực dọc trước toà vì quan toà cứ gọi ông là “Phuong Nô”. Ông đã yêu cầu quan toà phát âm cho đúng tên ông, vì “Nô” là nô bộc, đó không phải là tên của ông.
Ông Ngô Cảnh Phương là người thuộc đảng Lao Động, cùng chi bộ đảng với ông John Newman. Từ đó có dư luận cho rằng ông Ngô Cảnh Phương muốn hất chân ông John Newman, hòng dành sự đề cử của đảng để ra tranh chiếc ghế dân biểu duy nhất của đơn vị này. Nhưng theo bạn bè thì ông Ngô Cảnh Phương không muốn làm dân biểu, mà chỉ nhắm vào ghế nghị sĩ ở thượng viện tiểu bang. Tức là không có mâu thuẩn gì trong chuyện tranh ghế giữa ông và John Newman.
Một số người lại suy diễn rằng ông Ngô Cảnh Phương phải loại ông John Newman vì đã bị ông này tố cáo với ủy ban bài trừ tham nhũng. Điều này chắc chắn chỉ là sự suy diễn vì vấn đề không bao giờ được đề cập tới ở toà án.
Trong bối cảnh đó ông Ngô Cảnh Phương bị bắt vào tháng 3 năm 1998, gần 4 năm sau án mạng. Cùng bị bắt với ông còn có hai người Việt khác là Đào Tự Quang và David Đinh. Cảnh sát cáo buộc ông Phương tội chủ mưu, ông David là người bắn, ông Quang lái xe tẩu thoát.
Ông Đào Tự Quang và David Đinh là hai nhân viên làm việc cho câu lạc bộ giải trí Mekong Club ngay trung tâm Cabramatta. Trong khi ông Ngô Cảnh Phương là chủ tịch danh dự của câu lạc bộ này.
Phiên xữ đầu tiên diễn ra năm 1999 bị huỹ bỏ vì bên công tố thấy chưa đủ bằng chứng. Phiên xử thứ hai cùng năm không thành án, vì một người trong bồi thẩm đoàn không thấy ông có tội. Phiên xử lần thứ ba diễn ra vào năm 2001. Kết quả Ngô Cảnh Phương có tội, Đào Tự Quang và David Đinh vô tội.
Ngay khi ông bị toà tuyên bố có tội đã có nhiều nghi vấn về phiên toà này. Cảnh sát vẫn không biết ai là người bắn vì cả ông Quang lẫn ông David đều vô tội!
Các bằng chứng đưa tới việc buộc tội ông Ngô Cảnh Phương gồm lời khai rất ăn khớp của hai nhân chứng chủ chốt, một khẩu súng rĩ sét và toạ độ điện thoại bỏ túi của ông Phương.
Hai nhân chứng này là những người không xa lạ gì với ông. Chính họ cũng đang bị truy tố vì các tội danh khác, nhưng được miễn tố vì chịu làm chứng tố cáo ông Ngô Cảnh Phương. Danh tánh của họ được chương trình bảo vệ nhân chứng của cảnh sát che chở.
Cảnh sát đã dùng toạ độ từ hai tháp điện thoại để xác định vị trí của ông Ngô Cảnh Phương. Họ cho rằng khoảng 30 phút sau án mạng thì ông có mặt ở cạnh một giòng sông (để phi tang khẩu súng). Họ đưa thợ lặn đến tìm và vớt lên một khẩu súng ngắn.
Mười năm sau khi ông bị bắt, vào hôm 07 tháng 4 năm 2008 chương trình truyền hình “4 Corners” của đài ABC tại Úc đã đặt lại vấn đề về các bằng chứng trong phiên toà trên. Phóng sự điều tra cho thấy rằng hai nhân chứng đã hợp tác với cảnh sát trong một hoàn cảnh đầy nghi vấn. Lời chứng của họ không đáng tin cậy. Theo ông David Đinh thì tất cả bằng chứng của hai nhân chứng đưa ra là hoàn toàn bịa đặt. Theo ông Đào Tự Quang thì chắc chắn ông Ngô Cảnh Phương vô tội.
Vị trí của ông Ngô Cảnh Phương căn cứ vào toạ độ hai tháp điện thoại cũng không thể khẳng định được. Đó là phân tích của Giáo Sư Reg Coutts, một nhà chuyên môn về tín hiệu viễn thông thuộc đại học Adelaide ở Nam Úc. Ông cho biết vùng giao thoa của hai tháp điện thoại trong hồ sơ cảnh sát bao gồm cả bờ sông (nơi cảnh sát cáo buộc ông Phương đã có mặt) lẫn văn phòng một tờ báo Việt Ngữ (là nơi ông Ngô Cảnh Phương khai mình có mặt vào lúc đó).
Riêng về khẩu súng ngắn .32 thì phóng viên của “4 Corners” đã hỏi ý kiến một chuyên gia hàng đầu của Úc, là người đã có 30 năm nghiên cứu về tính ăn mòn của kim loại dưới nước. Tiến sĩ Ian MacLeod bảo rằng mức độ rỉ sét của khẩu súng cho thấy nó phải ở trong lòng sông lâu hơn 4 năm rất nhiều. Ông cũng nêu lên thời gian kỹ lục mà thợ lặn của cảnh sát bỏ ra để tìm khẩu súng. Dù đã nằm dưới lòng sông 4 năm, nhưng cảnh sát biết phải tìm ngay dưới chân cầu và đã tìm được khẩu súng trong vòng chưa đầy 20 phút!
Hai tháng sau chương trình “4 Corners”, vào ngày 6 tháng 6 năm 2008 chánh án của toà thượng thẩm (Supreme Court) tiểu bang NSW đã chỉ định một quan toà để xét lại phiên xử đã đưa tới án tù của ông Ngô Cảnh Phương. Lệnh này được đưa ra căn cứ vào một đạo luật về kháng án và tái thẩm định của tiểu bang NSW.
Người đệ đơn yêu cầu duyệt xét lại các bằng chứng của bản án này là Hugh Selby của trường Đại Học Quốc Gia Úc ở Canberra. Ông là một nhà khoa bảng chuyên nghiên cứu về các bằng chứng tại toà, về việc bào chữa, và về đạo đức nghề nghiệp trong giới chuyên môn.
Người vận động để ông Huge Selby nộp đơn xét lại bảng án là một phụ nữ tên Marion Le. Bà là một người hoạt động về nhân quyền rất quen thuộc trong các cộng đồng tỵ nạn, và là bạn thân của ông Ngô Cảnh Phương. Bà là người thăm viếng ông Ngô Cảnh Phương rất đều đặng trong tù. Không hề nghe ai đề cập tới người nhà của ông Ngô Cảnh Phương trong suốt thời gian qua.
Trong khi bà Marion Le tỏ ý hài lòng về quyết định này thì có những người tỏ ra vô cùng bất bình. Người đầu tiên lên tiếng là mẹ của ông John Newman. Sau đó là lực lượng cảnh sát NSW.
Sự thành công của ông Ngô Cảnh Phương đã khiến rất nhiều thành viên trong cộng đồng người Việt ghét ông. Thêm vào đó chắc chắn rất nhiều đối thủ trong chính giới Úc cũng hài lòng khi thấy ông ở tù.
Dĩ nhiên nếu có tội thì phải ở tù. Nhưng trong trường hợp ông Ngô Cảnh Phương thì các bằng chứng đưa ra không chứng minh được sự phạm tội chắc chắn tới độ không còn hồ nghi gì nữa (beyond reasonable doubt). Thật sự có quá nhiều nghi vấn về các bằng chứng này. Hy vọng việc xét lại sẽ làm sáng tỏ hơn trường hợp của ông Ngô Cảnh Phương. Nếu không đủ bằng chứng buộc tội thì ông phải được trả tự do. Chắc chắn có nhiều người đang rất lo ngại về trường hợp này.