Hôm nay,  

Ông Ngô Cảnh Phương Vô Tội?

28/06/200800:00:00(Xem: 16865)
Ngô Cảnh Phương đã vào tù năm 2001. Ông đang bị giam trong một nhà tù cực kỳ kiên cố dành cho những kẻ sát nhân nguy hiểm nhất tại Úc với án chung thân, và sẽ không bao giờ được ra. Ông phạm tội chủ mưu trong một án mạng được báo chí Úc gọi là vụ ám sát chính trị đầu tiên trong lịch sử nước này.

Lúc đầu ông chỉ bị giam ở Long Bay, một nhà tù gần Sydney. Nhưng sau buổi tiệc tất niên năm 2002 diễn ra trong khuông viên nhà giam thì ông bị chuyển vào nhà tù kiên cố SuperMax. Truyền thông Úc tường thuật rằng chính ông đã tổ chức và quyết định ai được mời, ai không. Thức ăn do hai nhà hàng Trung Hoa ở Sydney cung cấp. Thực khách bao gồm nhiều nghị viên bạn của ông ở ngoài vào dự. Ở nhà tù SuperMax ông cũng bị đặc biệt chiếu cố một cách khắt khe. Lý do chỉ vì cai tù tìm thấy 3 đĩa hồ sơ chứa các chương trình học sử dụng máy PC trong phòng giam của ông.

Ông là một người Úc gốc Việt. Lúc bị bắt ông đang là nghị viên hội đồng thành phố Fairfield, một khu vực có đông người gốc Á Châu cư ngụ. Hội đồng thành phố là cơ cấu dân cử thấp nhất trong ba cấp chính quyền tại Úc, dưới tiểu bang và liên bang.

Người bị hạ sát là một dân biểu thuộc phe Lao  Động của tiểu bang New South Wales (NSW). Ông John Newman bị bắn bằng súng ở tầm gần vào tối 5 tháng 9 năm 1994, ngay trước nhà ông tại Cabramatta.  Đây là một khu vực tập trung nhiều người Việt thuộc hội đồng thành phố Fairfield.

Ông John Newman luôn lớn tiếng lên án các băng đảng gốc Á Châu trong vùng nên được coi là chiến sĩ chống tội phạm (crime fighter) trong khu vực này.  Đặc biệt với những nhóm băng đảng gốc Việt thì ông đã tuyên bố họ xứng đáng được trả về những vùng rừng rú ở Việt Nam, nơi ông gọi là nguyên quán của họ.

Ông Ngô Cảnh Phương thì khác. Ông khá thân thiện với thành phần này. Ông đã công khai đi dự đám tang của một tay anh chị người Việt trong độ tuổi 20 ở khu Cabramatta khi anh ta bị giết trong một cuộc thanh toán giữa các băng đảng. Ông quen biết chính nạn nhân và gia đình của nạn nhân.  Đó là một đám tang khá đặc biệt. Ngoài người nhà ra còn có rất đông báo chí và cảnh sát theo trông chừng.  

Câu hỏi đặt ra là tại sao một người hoạt động chính trị đầy tương lai như vậy lại có quan hệ thân tình với thành phần bất hão trong xã hội"

Những người đã biết ông ở trại tỵ nạn thì không ngạc nhiên gì cả. Từ khi ở đảo tỵ nạn Bidong ông đã giao tiếp với mọi giới. Ông luôn sẳn lòng giúp đở người khác khi họ cần đến khả năng tiếng Anh của ông. Khi sang định cư tại Sydney ông vẫn tiếp tục giúp bạn bè hàng xóm hoặc người làm cùng hãng sau giờ làm việc. Thường ông giúp làm thông dịch viên, viết giùm lá thư hoặc điền giùm tờ đơn. Nhờ sống gần khu người Tàu ở Việt Nam nên ông nói được cả tiếng Quảng  Đông, đủ để giao dịch với những người Việt gốc Tàu tại Úc.

Ông Ngô Cảnh Phương không chỉ thân thiện với giới sống bên lề của xã hội và pháp luật. Tất cả các lãnh tụ chính trị của cả liên bang lẫn tiểu bang, từ phe chính phủ đến đối lập đều muốn được xuất hiện bên cạnh ông. Họ xem ông là đại diện có uy tín của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Họ muốn được sự ủng hộ của ông.

Trong thực tế là ông Ngô Cảnh Phương chưa bao giờ nắm bất cứ một chức vụ gì trong cơ cấu cộng đồng người Việt ở Úc. Nhưng điều đó không quan trọng.  Điều quan trọng là ông có khả năng gây quĩ không ai sánh bằng.

Xin trích một vài câu đối đáp trong quốc hội NSW để thấy ảnh hưởng của ông Ngô Cảnh Phương với chính giới Úc. Cuộc đối chất này diễn ra trong quốc hội tiểu bang NSW vào năm 2002, khi ông Ngô Cảnh Phương đã vào tù.

Lúc ấy đảng Lao  Động đang cầm quyền ở NSW. Phe đối lập, tức là đảng Tự Do, đã dùng chữ “kẻ mối lái quyền lực của đảng Lao  Động NSW” để ám chỉ ông Ngô Cảnh Phương trong các câu hỏi đặt ra cho phe Lao  Động. Nhưng phe Lao  Động đã đáp lại bằng một loạt các câu hỏi khác: “Có phải đó là ông Phương đã chụp hình chung với lãnh tụ đảng Tự Do hay không"” “Có phải đó chính là ông Phương đã được lãnh tụ đảng Tự Do bổ nhiệm vào Ủy Ban Sắc Tộc Sự Vụ của NSW hay không"” “Có phải ông Phương đó là người đã tháp tùng bộ trưởng liên bang của đảng Tự Do trong các chuyến công du Việt Nam, Thái Lan, Hồng Kông hồi năm 1999 không"”

Tất cả những điều nêu trên đều có thật. Nói tóm lại, dù là người rất có ảnh hưởng của đảng Lao  Động, ông Ngô Cảnh Phương cũng đồng thời có rất nhiều mối liên lạc với phe Liên Hiệp ở cấp tiểu bang lẫn liên bang. Lô đất xây trung tâm sinh hoạt và văn hoá của cộng đồng người Việt tự do hiện nay ở NSW là do kết quả vận động của ông Ngô Cảnh Phương.

 Đặc biệt ông Ngô Cảnh Phương rất khéo léo với giới truyền thông Úc. Ông nói tiếng Anh chậm rãi, lưu loát và rất đúng sách giáo khoa. Ông có khả năng trả lời báo chí và truyền thông một cách rất thông minh, ôn tồn, dù bị hỏi dồn vào những tình huống khó khăn. Chỉ một lần người ta chứng kiến ông bực dọc trước toà vì quan toà cứ gọi ông là “Phuong Nô”. Ông đã yêu cầu quan toà phát âm cho đúng tên ông, vì “Nô” là nô bộc, đó không phải là tên của ông.

Ông Ngô Cảnh Phương là người thuộc đảng Lao  Động, cùng chi bộ đảng với ông John Newman. Từ đó có dư luận cho rằng ông Ngô Cảnh Phương muốn hất chân ông John Newman, hòng dành sự đề cử của đảng để ra tranh chiếc ghế dân biểu duy nhất của đơn vị này. Nhưng theo bạn bè thì ông Ngô Cảnh Phương không muốn làm dân biểu, mà chỉ nhắm vào ghế nghị sĩ ở thượng viện tiểu bang. Tức là không có mâu thuẩn gì trong chuyện tranh ghế giữa ông và John Newman.

Một số người lại suy diễn rằng ông Ngô Cảnh Phương phải loại ông John Newman vì đã bị ông này tố cáo với ủy ban bài trừ tham nhũng.  Điều này chắc chắn chỉ là sự suy diễn vì vấn đề không bao giờ được đề cập tới ở toà án. 

Trong bối cảnh đó ông Ngô Cảnh Phương bị bắt vào tháng 3 năm 1998, gần 4 năm sau án mạng. Cùng bị bắt với ông còn có hai người Việt khác là  Đào Tự Quang và David  Đinh. Cảnh sát cáo buộc ông Phương tội chủ mưu, ông David là người bắn, ông Quang lái xe tẩu thoát.

Ông  Đào Tự Quang và David  Đinh là hai nhân viên làm việc cho câu lạc bộ giải trí Mekong Club ngay trung tâm Cabramatta. Trong khi ông Ngô Cảnh Phương là chủ tịch danh dự của câu lạc bộ này.

Phiên xữ đầu tiên diễn ra năm 1999 bị huỹ bỏ vì bên công tố thấy chưa đủ bằng chứng. Phiên xử thứ hai cùng năm không thành án, vì một người trong bồi thẩm đoàn không thấy ông có tội. Phiên xử lần thứ ba diễn ra vào năm 2001. Kết quả Ngô Cảnh Phương có tội,  Đào Tự Quang và David  Đinh vô tội.

Ngay khi ông bị toà tuyên bố có tội  đã có nhiều nghi vấn về phiên toà này. Cảnh sát vẫn không biết ai là người bắn vì cả ông Quang lẫn ông David đều vô tội!

Các bằng chứng đưa tới việc buộc tội ông Ngô Cảnh Phương gồm lời khai rất ăn khớp của hai nhân chứng chủ chốt, một khẩu súng rĩ sét và toạ độ điện thoại bỏ túi của ông Phương.

Hai nhân chứng này là những người không xa lạ gì với ông. Chính họ cũng đang bị truy tố vì các tội danh khác, nhưng được miễn tố vì chịu làm chứng tố cáo ông Ngô Cảnh Phương. Danh tánh của họ được chương trình bảo vệ nhân chứng của cảnh sát che chở.

Cảnh sát đã dùng toạ độ từ hai tháp điện thoại để xác định vị trí của ông Ngô Cảnh Phương. Họ cho rằng khoảng 30 phút sau án mạng thì ông có mặt ở cạnh một giòng sông (để phi tang khẩu súng). Họ đưa thợ lặn đến tìm và vớt lên một khẩu súng ngắn.

Mười năm sau khi ông bị bắt, vào hôm 07 tháng 4 năm 2008 chương trình truyền hình “4 Corners” của đài ABC tại Úc đã đặt lại vấn đề về các bằng chứng trong phiên toà trên. Phóng sự điều tra cho thấy rằng hai nhân chứng đã hợp tác với cảnh sát trong một hoàn cảnh đầy nghi vấn. Lời chứng của họ không đáng tin cậy. Theo ông David  Đinh thì tất cả bằng chứng của hai nhân chứng đưa ra là hoàn toàn bịa đặt. Theo ông  Đào Tự Quang thì chắc chắn ông Ngô Cảnh Phương vô tội.

Vị trí của ông Ngô Cảnh Phương căn cứ vào toạ độ hai tháp điện thoại cũng không thể khẳng định được.  Đó là phân tích của Giáo Sư Reg Coutts, một nhà chuyên môn về tín hiệu viễn thông thuộc đại học Adelaide ở Nam Úc. Ông cho biết vùng giao thoa của hai tháp điện thoại trong hồ sơ cảnh sát bao gồm cả bờ sông (nơi cảnh sát cáo buộc ông Phương đã có mặt) lẫn văn phòng một tờ báo Việt Ngữ (là nơi ông Ngô Cảnh Phương khai mình có mặt vào lúc đó).

Riêng về khẩu súng ngắn .32 thì phóng viên của “4 Corners” đã hỏi ý kiến một chuyên gia hàng đầu của Úc, là người đã có 30 năm nghiên cứu về tính ăn mòn của kim loại dưới nước. Tiến sĩ Ian MacLeod  bảo rằng mức độ rỉ sét của khẩu súng cho thấy nó phải ở trong lòng sông lâu hơn 4 năm rất nhiều. Ông cũng nêu lên thời gian kỹ lục mà thợ lặn của cảnh sát bỏ ra để  tìm khẩu súng. Dù đã nằm dưới lòng sông 4 năm, nhưng cảnh sát biết phải tìm ngay dưới chân cầu và đã tìm được khẩu súng trong vòng chưa đầy 20 phút!

Hai tháng sau chương trình “4 Corners”, vào ngày 6 tháng 6 năm 2008 chánh án của toà thượng thẩm (Supreme Court) tiểu bang NSW đã chỉ định một quan toà để xét lại phiên xử đã đưa tới án tù của ông Ngô Cảnh Phương. Lệnh này được đưa ra căn cứ vào một đạo luật về kháng án và tái thẩm định của tiểu bang NSW.

Người đệ đơn yêu cầu duyệt xét lại các bằng chứng của bản án này là Hugh Selby của trường  Đại Học Quốc Gia Úc ở Canberra. Ông là một nhà khoa bảng chuyên nghiên cứu về các bằng chứng tại toà, về việc bào chữa, và về đạo đức nghề nghiệp trong giới chuyên môn.

Người vận động để ông Huge Selby nộp đơn xét lại bảng án là một phụ nữ tên Marion Le. Bà là một người hoạt động về nhân quyền rất quen thuộc trong các cộng đồng tỵ nạn, và là bạn thân của ông Ngô Cảnh Phương. Bà là người thăm viếng ông Ngô Cảnh Phương rất đều đặng trong tù. Không hề nghe ai đề cập tới người nhà của ông Ngô Cảnh Phương trong suốt thời gian qua.

Trong khi bà Marion Le tỏ ý hài lòng về quyết định này thì có những người tỏ ra vô cùng bất bình. Người đầu tiên lên tiếng là mẹ của ông John Newman. Sau đó là lực lượng cảnh sát NSW.

Sự thành công của ông Ngô Cảnh Phương đã khiến rất nhiều thành viên trong cộng đồng người Việt ghét ông. Thêm vào đó chắc chắn rất nhiều đối thủ trong chính giới Úc cũng hài lòng khi thấy ông ở tù.

Dĩ nhiên nếu có tội thì phải ở tù. Nhưng trong trường hợp ông Ngô Cảnh Phương thì các bằng chứng đưa ra không chứng minh được sự phạm tội chắc chắn tới độ không còn hồ nghi gì nữa (beyond reasonable doubt). Thật sự có quá nhiều nghi vấn về các bằng chứng này. Hy vọng việc xét lại sẽ làm sáng tỏ hơn trường hợp của ông Ngô Cảnh Phương. Nếu không đủ bằng chứng buộc tội thì ông phải được trả tự do. Chắc chắn có nhiều người đang rất lo ngại về trường hợp này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.