Hôm nay,  

Khóc Cười Theo Mệnh Nước Nổi Trôi…

27/11/200700:00:00(Xem: 8822)

Con người đôi khi cần phải khóc. Không ai cần phải học cách khóc, bởi vì ngay từ lúc được sinh ra ở cuộc đời này con người đã biết khóc. Có lúc không cầm lòng được phải khóc trước đám đông như: Khóc trong đám mà để bày tỏ lòng thương tiếc, khóc trong đám cưới để để tỏ sự sung sướng hạnh phúc, khóc để lấy cảm tình của người khác, khóc để cảm thông với hoàn cảnh của người khác, khóc khi sum họp, khóc lúc chia ly... có lúc chẳng đặng đừng phải khóc vì bị đối xử tàn nhẫn bởi các  con người vô cảm… Cũng có lúc phải khóc một mình: khóc thầm, khóc tủi trong đêm, khóc trước bàn thờ, khóc trước cửa quan; khóc để thương xót cho số phận hẩm hiu, bèo giạt hoa trôi của mình và của người thân...

Nhìn lại vận mệnh nước Việt Nam qua lịch sử, dù cho chúng ta có bất đồng chính kiến nhưng cũng phải đồng ý là dân Việt đã khóc nhiều hơn cười.

So sánh với các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam đã có nhiều cái đáng được gọi may mắn: chẳng hạn như là dòng giống Việt tộc tương đối khá thuần chủng. Lịch sử Việt đã trải qua 4000 năm lẻ mà chỉ vỏn vẹn chỉ có khoảng trên dưới 100 tên họ (last names) và duy nhất một ngôn ngữ Việt Nam (tiếng Việt với 3 giọng phát âm Nam Trung Bắc và một loại chữ viết – chữ quốc ngữ). Cứ nhìn Phi luật tân. Họ có trên 1000 đảo mà người ở đảo này không thể hiểu tiếng nói của người ở đảo bên cạnh, họ phải lấy tiếng Tây ban nha rồi đến tiếng Anh làm căn bản mọi cho sự truyền thông quốc gia. Ấn độ cũng một thời phải lấy tiếng Anh là căn bản vì không thể lấy một ngôn ngữ địa phương nào thích đáng làm quốc ngữ cho Ẩn độ. Trung hoa mặc dù không đến nỗi phải dùng ngoại ngữ (Anh ngữ chẳng hạn) nhưng tiếng Quan thoại không phải là giọng lưỡi của nhiều chủng tộc khác sống ở hoa lục. Nhiều nước ở Phi châu phải dùng tiếng Pháp là quốc ngữ vì các bộ lạc không thể đồng ý lựa chọn một thứ tiếng đại diện cho toàn quốc gia! Chính vì cái độc đáo thuần chủng và tiếng Việt mà nước Việt Nam tồn tại qua bao khắc nghiệt của những năm dài bị đô hộ, thuộc địa, nội chiến…

Mặc dù may mắn tồn tại, nhưng dân tộc Việt cũng đã chịu đựng nhiều, phải nói là rất nhiều bất hạnh mà phần lớn là do lãnh đạo u mê. Qua lịch sử, lãnh đạo ngu muội đã lần lượt đưa dân tộc vào các giai đoạn đen tối đầy nước mắt. 

Khi nào thì nên khóc"  Cũng dễ hiểu, đó là lúc buồn, lúc tủi, lúc đau khổ, lúc cảm thấy bất lực… Lúc nào thì được xem là lúc buồn, tủi, đau khổ nhất"  Theo tôi không có gì buồn cho bằng lúc phải chia ly - chia ly với người sống cũng như chia ly với người chết.  Lịch sử Việt Nam thật đặc biệt, đã ghi lại rất nhiều cuộc chia ly vĩ đại buồn thảm, tang thương và điêu linh…

Sự chia ly lịch sử đầu tiên vào thời (hoang sơ) lập quốc

Vua Việt là Lạc Long quân (con của Kinh Dương Vương) lấy Bà Âu Cơ đẻ được 100 con (")  Một ngày đẹp trời Lạc Long quân, có lẽ nghe theo lời xúi bẩy của một ông thầy tướng số tử vi thời đó (") nói với bà Âu Cơ là:

“Ta giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khác nhau, chung hợp thật khó. Nàng nên đêm 50 đứa con lên núi, còn ta sẽ đem 50 con về biển (Nam hải).”

Sử thần Ngô Sĩ Liên trong “DDại Việt Sử Ký toàn thư” viết rằng:

“Theo sách Thông Giám Ngọai Kỷ, Bà Âu Cơ là con gái của Đế Lai. Đế Lai là con Đế Nghi, mà Đế Nghi là anh của Kinh Dương Vương. Như vậy, Lạc Long Quân là chú ruột của bà Âu Cơ mà hai người lại kết hôn với nhau"  Có lẽ thời ấy còn hoang sơ; lễ nhạc, đạo lý chưa được đặt ra rõ rệt cho nên mới có chuyện kết hôn như vậy chăng"”

Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân Lạc Long Quân – Âu Cơ đã có “oan trái!”  Thành thử cũng khó mà bền chặt.  Chia ly cũng không phải là chuyện ngạc nhiên.  Có điều nên để ý là hình như Bà Âu Cơ cũng đã có nhiều bất đồng ý kiến riêng tư với Lạc Long Quân từ trước rồi hay sao đó (không thấy lịch sử ghi chép gì về cái mảng này!) thế là Bà Âu Cơ không hề lên tiếng phản đối đề nghị chia ly hoàn toàn không cần thiết này của Lạc Long Quân.  Bà Âu Cơ dẫn dắt 50 đứa con từ biệt chồng (và 50 đứa con) lên núi mất biệt.  Dù bố mẹ có giận nhau hay không giận nhau (") thì trong hoàn cảnh chia tay thế nào đi nữa, các con cái của Lạc Long Quân và Âu Cơ chắc chắn đã có nhiều người khóc nhớ cha, người khóc nhớ mẹ, nhớ anh, nhớ em… như di vỡ tổ.  Đong đo làm sao cho hết nước mắt của 100 người con đã khóc đồng loạt vì cái sự chia ly “lảng xẹc” này!!!  Không biết truyền thuyết “50 con lên núi, 50 con xuống (vùng) biển” của dân tộc Việt có đúng không"  Gỉa thử trời cho người Việt phép lạ được sống thọ vài ngàn năm tuổi thì bây giờ nếu (50) người con của Lạc Long Quân tìm gặp lại được (50) người “anh em” ruột thịt của mình đang sống ở miền thượng du; thấy họ vẫn còn đóng khố, đít chai, vẫn còn ăn “cức khô” (cực khổ) không… thì chắc là phải đau lòng không thể nào cầm được nước mắt!

Thực tế, chúng ta (người Kinh) hôm nay dường như hòan tòan dửng dưng trước các sự đau khổ của người dân miền thượng du, tây nguyên…   Đó là chưa nói đến việc đối xử rất tàn nhẫn với họ; thí dụ như trong vấn đề tranh chấp đất đai hiện nay.

Ở Nam hải, người con trưởng của Lạc Long Quân là Vua Hùng Vương thứ nhất đã dựng nên nước Việt của chúng ta.  Như đã trình bày, lịch sử lập quốc Việt Nam đã mở màn bằng một điềm gở: “cuộc chia ly rất đau lòng.”  Vận nước Việt thế rồi cứ theo cái điềm gở đó mà tái diễn.

Sự chia ly dưới thời kỳ đô hộ của Trung Hoa (1000 năm)

Năm Canh Ngọ 111 trước tây nguyên (BC), tướng Lộ Bác Đức của nhà Hán đánh chiếm nước Nam của vua Triệu Dương Vương, đổi tên nước Nam Việt (của nhà Triệu) thành Giao Chỉ và đặt nền đô hộ tầu lần thứ nhất dài 150 năm.  Cho đến năm 40 sau tây nguyên (AD), Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh đánh đuổi Thái thú Tô Định chạy về tầu; giành lại độc lập.

Năm Quí Mão 43, Hai Bà Trưng thua quân Mã Viện trong trận cuối cùng ở Cẩm Khê (phủ Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên). Mã Viện đuổi theo hai Bà Trưng đến xã Hát Môn, huyện Phú Lộc (nay là huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây).  Thế bức quá, hai bà gieo mình xuống sông Hát (nay là sông Đáy ở tỉnh Sơn Tây, chỗ dẫn vào sông Hồng) và đánh dấu giao đoạn hai của sự đô hộ tầu. Giai đoạn này kéo dài gần 900 năm kế tiếp sau đó.

Gọi là “ddô hộ” cho nó có vẻ văn minh và hợp với ngôn từ ngoại giao quốc tế một chút, có nghĩa là người Trung hoa đến Việt Nam để khai hóa và hướng dẫn dân Việt ra khỏi sự man di mọi rợ, chứ thực sự là 1000 năm “lên rừng tìm ngà voi và xuống biển mò ngọc trai” để dâng quan thầy Trung hoa đem về nước dùng.  Nên biết là các quan thầy đô hộ Trung hoa là người đã phát minh ra cái tiểu xảo “chỉ cần mang theo lương thực đủ cho 3 ngày!”  Cứ tưởng tượng quang cảnh chim kêu vượn hú ở rừng sâu và lạnh lẽo âm u dưới đáy biển trong 1000 năm liên tiếp thì cuộc sống của dân Giao Chỉ ta phải ảm đạm đến cỡ nào"

Đi tìm ngà voi và mò ngọc trai chứ đâu có phải là đi “picnic” mà dân Giao Chỉ ta lại đem bố mẹ già, vợ con theo cho nó vui"  Thành thử trong 1000 năm dài đô hộ này, đếm làm sao cho hết các hòan cảnh chia ly tập thể…  Chắc chắn đã có rất nhiều người dân Việt bị voi đạp trăn quấn, sốt rét chết trên rừng sâu hoặc bị cá mập ăn thịt, bị chết đuối, chết trào máu tai máu mũi dưới đáy biển; không có ngày trở về gặp lại bố mẹ vợ con.

Cho mãi đến năm Kỷ Hợi 939  (đúng 900 năm sau), Ngô Quyền đứng lên đuổi quân Nam Hán, xưng vương dành lại độc lập cho xứ sở, tạm chấm dứt “Chương trình 1000 năm phát triển kinh tế song phương Hoa-Việt” (còn gọi là “chương trình tìm ngà voi và mò ngọc trai”).  Sau đó, nhà Minh của Trung Hoa, thấy 1000 năm đô hộ Việt Nam hình như chưa đủ, nên đã trở lại Việt Nam định trùng tu lại cái “Chương trình phát triển kinh tế song phương” này thêm 1000 năm nữa.  Nhưng nhà Minh không thành công.  Quân tầu chỉ “ddô hộ” thêm đuợc một thời gian ngắn (12 năm – từ 1414 đến 1427).  Sau đó, người dân Việt sống tương đối thái bình, yên ổn, sum họp cho đến giai đoạn Nam Bắc phần tranh.

Sự chia ly vì Nam Bắc phân tranh

Đến thời mạt Lê (giữa thế kỷ thứ 16), dân Việt lâm vào giai đoạn “nồi da sáo thịt; củi đậu nấu đậu” đầu tiên. Các người viết sử gọi giai đoạn này là “Nam Bắc Phân Tranh.”  Nghe thoáng qua cứ ngỡ là người dân miền Nam và người dân miền Bắc của Việt Nam phân tranh, đánh nhau để dành của cải của ông cha để lại.  Thực tế, đây hoàn toàn chỉ là sự phân tranh” quyền lợi của 2 gia đình các ông chúa Trịnh và Chúa Nguyễn; và dân Việt bị kẹt ở giữa cái hòan cảnh “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.”

Năm 1545, trong cuộc tranh chấp giữa họ Mạc và nhà hậu Lê, một vị tướng nhà Lê là Nguyễn Kim bị hàng tướng của họ Mạc đánh thuốc độc chết.  Binh quyền nhà Lê lọt vào tay của con rể Nguyễn Kim là tướng Trịnh Kiểm (Trịnh Kiếm lấy trưởng nữ của Nguyễn Kim là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, chị của Nguyễn Hoàng - con trai nhỏ nhất). Thế rồi vận nước giống y như chuyện gây gỗ riêng tư của 2 gia đình!  Để nắm trọn binh quyền, Trịnh Kiểm giết con cả của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông.  Em út của Nguyễn Uông là Nguyễn Hoàng lo sợ cũng bị anh rể hãm hại nên xin vào trấn thủ đất Thuận Hoá. Trịnh Kiểm cho rằng đất Thuận Hóa xa xôi, hoang vu, khó phòng bị nên đồng ý cho Nguyễn Hòang đi. Trịnh Kiểm cũng nhằm mục đích mượn tay quân Mạc để giết Nguyễn Hoàng ở Thuận hóa. Tuy nhiên Nguyễn Hoàng không những đánh bại quân Mạc ở Thuận Hoá mà lại được lòng dân Thuận Hoá. Đến khi Trịnh Kiểm chết (1570), con thứ là Trinh Tùng giết anh cả là Trinh Cối và nắm lấy binh quyền. Trinh Tùng sau khi đuổi được nhà Mạc lên Cao Bằng và áp chế vua Lê Thế Tông (còn nhỏ tuổi), Trịnh Tùng mới tính đến chuyện diệt Nguyễn Hoàng.

Cai oái oăm ở đây là Trinh Tùng, con Trịnh Kiểm, gọi Nguyễn Hoàng là cậu ruột!  Chẳng những thế, Nguyễn Hoàng lúc thất thế bí quá, muốn lấy lòng Trịnh Kiểm cho nên đã gả con gái của mình là Ngọc Tú cho con trai Trịnh Tùng là Trịnh Tráng – Cháu lấy cô! Thế mới thấy rằng vì quyền lợi và mạng sống con người có thể làm đủ mọi cách không kể gì luân lý, đạo đức…

Dân lành vô tội Việt Nam thời bấy giờ như quân hội vô phèng, như chó mất chủ, chay toán loạn vô trật tự: nhiều người Đàng ngoài (chúa Trịnh, phía bắc sông Gianh) thì chạy vào Đàng Trong (Chúa nguyễn, phía nam sông Gianh); nhiều người Đàng trong thì chạy ra Đàng ngoài.  Anh em, chú cháu, cậu cháu… khi không giết nhau chí tử như có thù truyền kiếp.   Ngay trong mỗi gia đình Chúa Trịnh (cũng như trong gia đình chúa Nguyễn) anh em chú cháu cũng giết lẫn nhau hàng ngày để tranh dành quyền thế, binh lực…  Biết bao nhiêu là gia đình đã bị chia ly trong hòan cảnh đầy máu và nước mắt ở giai đoạn nhiễu nhương nầy.

Trịnh Tùng và Nguyễn Hoàng đã chuẩn bị ráo riết về quân sự và dân sự để sửa soạn đánh nhau. Nhưng phải chờ đến thế hệ kế tiếp là Nguyễn Phúc Nguyên (tức Chúa Sãi lên thay cha là Nguyễn Hoàng năm 1613) và Trịnh Tráng (thay cha là Trịnh Tùng năm 1623) thì hai lãnh Chúa mới thực sự đánh nhau trận đầu tiên vào tháng 3 năm 1627.  Trong 45 năm ròng rã kế tiếp (từ 1627 đến 1672) hai Chúa Trịnh Nguyễn đánh nhau tổng cộng 7 trận.  Hàng chục vạn sinh linh (đại đa số là anh em, chú cháu) đã phải hy sinh. Các trận đánh thường chỉ kéo dài vài tháng - ngoại trừ trận thứ 5 kéo dài đến 5 năm  (1655-1660)  - và các trận đánh chỉ quanh quẩn trên 3 tỉnh giáp ranh là Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong 7 trận đánh này, không có phe nào được xem là toàn thắng. Cứ thỉnh thoảng hai bên phải tạm ngừng chiến để củng cố lực lượng, an bài chính sự, nội bộ rối ren; và lấy sông Gianh (thuộc tỉnh Quảng Bình) làm đường ranh chia đôi nam bắc.

Thực ra phải nói là họ Trịnh và Nguyễn đã đánh nhau tổng công là 8 trận. Tuy nhiên trận thứ 8 (năm 1774-1775) phe của chúa Trịnh Sâm có sự can dự và giúp đỡ của quân Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ) nên các sử gia không kể trận thứ 8 là (chúa) Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trận thứ 8 này, về phuơng diện lãnh thổ, quân Trịnh Sâm đã chiếm đến tận Quảng Nam tức là lấn qua cả địa bàn chính của chúa Nguyễn là Thuận Hóa. Nhưng chỉ 10 năm sau đó (vào năm 1786) thì Tây Sơn diệt cả 2 chúa Trịnh-Nguyễn một lượt cho tiện sổ sách và chấm dứt luôn cái chuyện dài “DDàng trong Đàng ngoài.”

Sự chia ly dưới thời Pháp thuộc

Sau khi vua Tự đức và triều đình Huế đánh thua Pháp, ký hiệp ước 1884, thì nước đại Pháp chia Việt Nam ra không phải là 2 miền Nam Bắc mà là 3 miền Nam Trung Bắc để dễ cai trị. Người Pháp cũng bắt đầu thi hành các chương trình thực dân để khai thác tài nguyên và xương máu của dân tộc Việt. 

Kể cũng lạ, người Pháp đã đến đến xâm lăng và “ddô hộ” Việt Nam với cùng một chiều bài như người Trung hoa đã dùng trong 1000 năm: “Họ đến để khai phóng một dân tộc lạc hậu!”  Người Trung hoa và người Pháp đều có một điểm giống nhau là “sống thiếu vệ sinh” (đây là nhận xét có ghi trên giấy tờ của quan sát viên quốc tế, không phải của người viết bài này!) và cả hai đều đặc biệt chú ý đến “sự lạc hậu” của Việt Nam.  Họ cứ chực lăm le đòi đến khai hóa Việt Nam mặc dù Việt Nam chẳng hề mời mọc họ đến “ddô hộ” mình gì cả! 

Trung hoa mỗi khi củng cố nội bộ của họ xong là họ tính ngay đến chuyện xua quân qua biên giới để thôn tính Việt Nam.  Còn người Pháp vì địa lý cách trở xa xôi, không thể dùng quân sự ồ ạt tấn công Việt Nam như Trung hoa được.  Họ phải chia sự thôn tính ra làm 2 giai đọan.  Giai đọan đầu, họ đưa các ông cố đạo hiền khô, không có vũ khí đến Việt Nam để truyền giáo.  Các ông cố đạo đưa thánh kinh cho dân Việt và bảo dân Việt nhắm mắt lại để cầu nguyện.  Dân Việt thật hiền hậu, hiếu khách.  Sau khi vui vẻ nghe giảng đạo xong, cầm thánh kinh nhắm mắt cầu nguyện.  Đến lúc mở mắt ra thì tầu chiến của Pháp đã bắn vào cửa Thị Nại, và lính viễn chinh của Pháp với đầy đủ súng ống đã đổ bộ lên đất liền.  Dân Việt nửa tỉnh nửa mê trở tay không kịp nữa.  

Thời kỳ Pháp thuộc khởi đầu bằng “Chương trình 100 năm hợp tác phát triển kinh tế Việt-Pháp.”  Chương trình này dựa trên căn bản “50-50” rất bình đẳng (") có nghĩa là cứ mỗi lần người Pháp thu vào 50 đồng thì người Việt được chia 50 xu.  Dân Việt vì xưa nay vẫn theo Nho giáo, chỉ học chữ Nho từ chương, chỉ giỏi làm thơ phú cho nên còn kém về toán học. Thành thử không phân biệt được 50 đồng và 50 xu (vì đều là 50!).  Tội nghiệp cho dân tộc, thêm gần 100 năm sau mới hiểu và hòan tòan sáng mắt ra!

Dân Việt bị người Pháp bóc lột tận xương chỉ còn mỗi cái khố mang trên người.  Vì đói quá cho nên nhiều chủ gia đình đã phải từ giã vợ con để tham gia chương trình mộ phu mỏ than hoặc phu cạo mủ trong các đồn điền cao su ở vùng khỉ ho cò gáy.  Nhiều người đã chết và được chôn làm phân bón ở ngay gốc cây cao su …

Sự chia ly (cuộc di cư) năm 1954:

… Việt minh thắng Pháp trong trận Điện Biên Phủ.  Người Pháp đầu hàng vô điều kiện và đồng ý rút ra khỏi Việt Nam, trả nước Việt lại cho dân Việt.  Căn cứ vào khoản “14D” của Hiệp định Geneve, dân chúng của cả hai miền Nam Bắc được tự do lựa chọn miền đất sống của mình trong vòng 300 ngày sau khi hiệp định được ký kết.   Kết quả đã có “cuộc bỏ phiếu bằng chân” đầu tiên và lớn nhất lịch sử Việt Nam đã diễn ra năm 1954-55 này: một triệu người miền Bắc di cư vào nam, hay nói cách khác đã chạy vào miền nam để tránh CS.  Trên một triệu người bỏ quê cha đất tổ, bỏ bố mẹ, bỏ chị, bỏ anh, bỏ em để chạy CS… không biết họ có đủ thời giờ nói lời từ biệt hay không"  Không biết họ có đủ thời giờ để khóc than cho sự chia ly định mệnh này không"  Đây là đầu tiên trong lịch sử Việt Nam danh từ “Di cư” được dùng (từ chính phủ Ngô Đình Diệm) để chỉ cuộc chia ly vĩ đại.

Lần này con sông Bến Hải (cũng thuộc tính Quảng Bình) là lằn ranh mới của 2 miền Nam Bắc.

Sự chia ly (vượt biển, di tản) năm 1975 và những năm kế tiếp:

Trong giai đọan “ddánh Mỹ cứu nước,” đã có rất nhiều sự chia ly gia đình và rồi phải “sinh Bắc tử Nam.”  Cuộc chiến kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Miền Nam thất trận, tan hàng như ong vỡ tổ.  Đồng thời có một cuộc chia ly vĩ đại vô trật tự, tang thương gấp mưới mấy lần “di cư” năm 1954.  Cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, chữ “Di tản” (và “Vượt biên”) đã được sử dụng.  Dân miền nam Việt nam cứ chạy bừa ra biển Đông để thoát thân mặc dù đại đa số không biết bơi.  Theo tổng kết của “Cao Ủy Tị Nạn Quốc Tế” thì số người tham dự các cuộc vượt biên, vượt biển … đã có đến 3 triệu người.  Họ đã bỏ nước ra đi đầy nước mắt.  Có hàng trăm ngàn người dân Việt Nam đã bỏ xác trong lòng đại dương vì đói khát, giông bão, hải tặc Thái Lan… tiếng than khóc ngất trời cho đến tượng đá cũng phải nhỏ lệ...

Tại quốc nội, trong giai đọan này, phải kể thêm sự chia ly của hàng trăm ngàn gia đình những người dân miền nam bị bắt đi học “cải tạo” (“chỉ cần đem theo lương thực đủ 3 ngày!”)… Qua những sự chia ly trên đất liền này, có thêm hàng trăm ngàn nhân mạng đã phải hy sinh vì sự cơ cực, đày đọa ở các trại “học tập.”   Phải thắc mắc là “chiến thắng vĩ đại của dân tộc” mà sao sau đó lại có nhiều dân lành mất mạng như vậy"""

Sự Chia ly của ngày (giờ) hôm nay...

Chương trình vượt biên, vượt biển đã chính thức được đóng sổ.  Hôm nay, dân Việt Nam đang phải đương đầu với những cuộc chia ly mới: hàng trăm, hàng ngàn các thiếu nữ ngây thơ phải chia tay với cha mẹ, anh em, ruộng vườn để đi lấy chồng xa lạ ở Đại hàn, Đài loan, Trung quốc…  đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ v..v.. chia ly với gia đình để đi theo các chương trình “xuất cảng lao động” sang Ba lan, Hung gia lợi, Tiệp khắc, Sô viết, Trung quốc, Mã lai, Tân gia ba… trẻ thơ chia ly với bố mẹ để đi làm… kiếm sống ở Cao miên v..v.. những người dân còn ở lại thì đã khóc hết nước mắt vì mất đất, mất nhà, mất tương lai, mất tất cả…

Không hiểu là chúng ta đây, những người đã có đời sống yên ổn, cũng chỉ ngồi nhìn dân tộc mình  khóc cho qua ngày qua tháng hay sao"""

“…Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam này

Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài.

Từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn.

Thượng Đế hỡi hãy lắng nghe người dân hiền.

Vì đất nước đang còn ưu phiền.

Còn tiếng khóc đi vào đêm tường triền miên…”

 (Lê Minh Bằng – “DDêm nguyện cầu”)

“Còn trời còn đất còn non nước

Có lẽ nào ta đâu mãi thế này”

(Nguyễn Công Trứ - “Quân Tử Cố Cùng”)

Trần Văn Giang

11/26/2007

Tham khảo:

- “DDại Việt Sử ký Tòan Thư” của Ngô Sĩ Liên

- “Việt Nam Sử Luợc” của Trần Trọng Kim

- “Việt Sử Tòan Thư” của Phạm văn Sơn

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.