Hôm nay,  

Ổn Định Không Phát Triển

27/06/200700:00:00(Xem: 9496)

...nhân danh ổn định sẽ tụt hậu, dân ta sẽ chỉ đi làm thuê cho thiên hạ trong những nghề họ chẳng thèm làm...

Tiếp tục tìm hiểu về những ảnh hưởng của vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á xảy ra đúng 10 năm về trước, Diễn đàn Kinh tế đài RFA kỳ này sẽ cố rút tỉa một số bài học cho Việt Nam qua cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, ngày mùng hai tháng Bảy năm 1997, tức là chỉ một ngày sau khi Hong Kong hồi quy cố quốc, một vụ biến động ngoại hối bất ngờ xảy ra tại Thái Lan và lập tức lan rộng qua Indonesia, Philippines, Malaysia, lên tới Nam Hàn và Hong Kong rồi tràn qua nhiều nước khác trên thế giới... Vụ khủng hoảng ấy khiến hàng loạt chính phủ Đông Á bị đổ và gây hậu quả bất lợi cho các nước. Chương trình tuần trước đã phân tách về các nguyên do. Kỳ này, xin đề nghị là ta sẽ cùng tìm hiểu về những hậu quả để rút tỉa bài học cho Việt Nam.

Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi: đâu là bài học then chốt của vụ khủng hoảng này"

Vụ khủng hoảng khiến người ta nhớ tới lý luận của một kinh tế gia người Áo là ông Joseph Schumpeter về sự “hủy diệt sáng tạo”. Ông ta đưa ra lý luận này cách đây đúng 65 năm, vào năm 1942, rằng chủ nghĩa tư bản là một sự sáng tạo không ngừng và chính sự sáng tạo ấy đã hủy diệt những thành quả của nguyên trạng và tạo ra những đổi thay tiến bộ hơn. Bàng bạc bên dưới lý luận này là tinh thần dân chủ và chống độc quyền như một động lực của sự tiến hoá. Sở dĩ tôi muốn nhắc tới lý luận nay đã thuộc loại sơ đẳng và không thể thiếu của kinh tế học nhập môn là vì cuộc khủng hoảng đã vạch trần một sai lầm lưu cữu về sự liên hệ giữa ổn định và phát triển.

Riêng với Việt Nam, điều này thật ra quan trọng vì nhiều người ở trong và ngoài nước vẫn còn lý luận rất sai là Việt Nam cần ổn định để phát triển. Chính là yêu cầu ổn định ấy đã cản trở tinh thần dân chủ, tính sáng tạo và chi phối thái độ hàng ngày của người ta đối với rủi ro của đời sống. Nôm na là sự ổn định khiến ta ươn hèn đi, là trở lực chống phát triển và duy trì chế độ độc tài hay độc quyền kinh tế. Chúng ta sẽ phải lần lượt giải thích để giải thoát ra khỏi ảo tưởng này.

Hỏi: Ông hay thường nêu ra những lý luận đầy nghịch lý. Vụ khủng hoảng năm 97-98 đã khiến hàng loạt quốc gia Đông Á bị chấn động, nhiều chính quyền bị đổ chứ có gì là sáng tạo đâu"

Thưa vâng, vụ khủng hoảng khiến chế độ độc tài Suharto tại Indonesia bị sụp đổ sau 32 năm độc quyền cai trị mà họ gọi là ổn định, như Việt Nam ngày nay. Nó khiến Chính phủ Yongchaiudh Chavalit vừa lên cầm quyền đã bị đổ tại Thái và dẫn tới nhiều thay đổi chính trị trong khu vực Đông Á. Trước đấy, vụ khủng hoảng kinh tế Nhật vào đầu thập niên 90 cũng khiến chính quyền của đảng Dân chủ Tự do bị đổ và phải lột xác sau 38 năm cầm quyền liên tục từ 1955 đến 1993.

Nhưng khủng hoảng cũng phá vỡ những ách tắc trong cơ chế chính trị và kinh tế, xoá bỏ tình trạng cấu kết giữa các tập đoàn kinh doanh và ngân hàng với bộ máy công quyền và các chính khách mị dân hay bất lương. Nó khiến người ta nhìn thấy sự phá sản của chiến lược kinh tế Đông Á sau mấy chục năm thành công ngoạn mục. Ngày nay, nền kinh tế của ngần ấy quốc gia đều đã khá hơn và phát triển công bằng hơn, và về xã hội vẫn hơn hẳn Việt Nam lẫn cả Trung Quốc.

Yếu tố chính của hiện tượng đào thải để tái sinh ấy chính là quy tắc dân chủ. Việt Nam chưa hiểu ra một bài học sơ cơ của kinh tế học và phát triển cho nên chúng ta sẽ còn phải giải thích nhiều.

Hỏi: Trước khi giải thích tiếp những nguyên lý mà ta xin tạm gọi là ổn định cản trở phát triển, hoặc trong sự hủy diệt đã có mầm sáng tạo và tiến bộ, chúng tôi đề nghị ông đưa ra vài thí dụ khác để thính giả thấy ra sự liên hệ giữa hai khái niệm tưởng như là mâu thuẫn này.

Đầu tiên, ta cần minh xác lại định nghĩa. Phát triển không là tăng trưởng vì bao hàm cả yếu tố tinh thần và phẩm chất. Trong 10 năm liền, Thái Lan đã có tốc độ tăng trưởng tới 9% một năm, tức là còn cao hơn Việt Nam ngày nay, trước khi bị khủng hoảng năm 1997.

Thứ hai, cái mà người ta gọi là sự ổn định có khi chỉ là sự tồn tại của một hệ thống lạc hậu.

Á châu chúng ta đã có sự ổn định man rợ của chế độ quân chủ và hệ thống giáo dục Khổng Nho và nó kéo dài cho tới khi bị thách đố bởi hệ thống tổ chức Tây phương. Hệ thống tổ chức Âu châu đã phá vỡ trật tự Á Đông không nhờ vì có đại pháo hay tàu chiến chạy bằng hơi nước. Những phát minh khoa học kỹ thuật đó sở dĩ thành hình là nhờ Âu châu đã tự giải phóng khỏi cái ách tôn giáo rồi chế độ quân chủ chuyên chính và tiến dần ra chế độ dân chủ.

Suy như vậy thì dường như thế giới loài người có bị chi phối bởi một quy luật then chốt là có tự do suy tư hay không, mà càng có nhiều tự do là càng dễ tiến hoá lên trình độ tốt hơn.

Hỏi: Nhưng, sự tự do ấy cũng nhất thời gây ra thay đổi, biến động hay khủng hoảng chứ"

Tôi thiển nghĩ là ta có ba tầng suy xét sự đổi thay, từ kinh tế lên chính trị và lên tới văn hoá.

Nếu có thể làm một phép quy nạp thì một vụ khủng hoảng kinh tế có khi gây xáo trộn trong khoảng thời gian từ năm đến 10 năm là cùng, nhưng nếu có xã hội có tự do và chính trị có dân chủ, thì kinh tế sẽ lại phát triển mạnh trên một nền tảng lành mạnh hơn của một xã hội công bằng hơn. Đó là tình trạng của các nước Đông Á đã bị khủng hoảng 10 năm trước.

Hàng ngày, ta nghe nói đến bất ổn chính trị tại Thái, hay rủi ro đảo chính tại Philippines nhưng kinh tế mấy xứ đó vẫn hơn Việt Nam quá xa và xã hội cũng công bằng gấp bội. Indonesia là xứ đa văn hoá và tôn giáo trải rộng trên 17 ngàn hòn đảo và bị khủng bố tấn công hai lần mà vẫn là quốc gia tiến bộ về dân quyền và giải trừ được ách tham nhũng đi cùng sự ổn định của chế độ Suharto. Người dân mấy xứ đó không sợ đổi thay và dù tầng lớp chính trị ở trên có tranh đoạt quyền bính thì xã hội dân sinh ở dưới vẫn có tự do sinh hoạt và ứng phó để tiến hoá, là trường hợp mà Việt Nam chưa có vì cả xã hội ở dưới e sợ đổi thay nên vẫn để lãnh đạo duy trì độc tài.

Hỏi: Ông nói đến ba tầng suy tư, sau kinh tế là chính trị và văn hoá, điều ấy có nghĩa là gì"

Thưa là sau kinh nghiệm về kinh tế của Á châu thì một sự thay đổi chính trị sẽ gây hậu quả bất ổn trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 năm. Sau đó tình hình sẽ có thể khá hơn nếu ta có dân chủ, đó là trường hợp phổ biến của các nước cộng sản Đông Âu sau khi chế độ Xô viết sụp đổ.

Ngoại lệ là Liên bang Nga, thoát ra khủng hoảng năm 1998 là nhờ dầu khí lên giá mà về căn bản vẫn là một xứ lạc hậu và không có dân chủ, thua kém rất xa các nước Ba Lan, Hungary hay Đức, hay ba nước Cộng hoà Baltic. Cường quốc duy nhất mà người dân không thiết tha đến tương lai và sự sinh tồn đến mức dân số sút giảm và băng đảng hoành hành chính là nước Nga ngày nay. Ông Vladimir Putin muốn tìm lại sự ổn định qua chế độ tập quyền kiểu bôn-sơ-vích dưới cái vỏ dân chủ mà vẫn sẽ khó tránh khỏi khủng hoảng trong một sự lụn bại kéo dài. Đây là một vấn đề văn hoá và vì là văn hoá nên thay đổi chậm hơn và di hại lâu hơn.

Hỏi: Dường như ông đang nói đến tầng suy tư thứ ba là văn hoá. Liệu chúng ta có cần một cuộc cách mạng văn hoá chăng"

“Cách mạng văn hoá” theo kiểu Mao chỉ là đòn phép chính trị của truyền thống Đông phương là dùng lực lượng phiên trấn bên ngoài để tranh đoạt quyền lực ở trung ương, hay trong đảng.

Trở lại đề tài của chúng ta thì quy luật chính ở đây là phải dám chấp nhận đổi thay cả chính trị. Mà sở dĩ không dám là vì yếu tố văn hoá. Việt Nam chưa thể đổi mới vì nếp văn hóa e sợ đổi thay sau khi đã nếm mùi chiến tranh oan uổng và cách mạng giả hiệu. Ngày nay, những ai kêu gọi thay đổi thường bị chế độ kết án là làm loạn, với sự đồng tình thụ động của người dân vì nhiều người Việt Nam cho rằng những nhân vật đấu tranh cho dân chủ đã gây ra bất ổn. Đó là khảo hướng tai hại về cách lượng định rủi ro và ứng phó với tương lai khi thế giới đã thay đổi.

Hỏi: Bây giờ, ta hãy rút tỉa bài học cho Việt Nam, đâu là những điều Việt Nam có thể học được từ vụ khủng hoảng Đông Á 10 năm về trước"

Từ trong khủng hoảng, người ta phải tìm giải pháp khác và có thể tìm ra giải pháp tốt đẹp hơn nếu có tự do. Cách đây 20 năm, Việt Nam bị khủng hoảng kinh tế nên phải tìm giải pháp khác chứ không còn bám lấy lý luận của kinh tế học Mác-Lenin. Nhưng trình độ tư duy của lãnh đạo và khuôn khổ tự do không có của dân chúng chỉ dẫn tới giải pháp đổi mới nửa vời. Và sau khi kiệt quệ vì lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi mới chỉ đủ vặt mũi bỏ mồm như các cụ ta hay nói thì người ta đã sợ mất và hết dám đổi thay. Mọi người đều không mấy hài lòng với nguyên trạng nhưng vẫn e sợ rủi ro và nhân danh sự ổn định bạc nhược và tụt hậu này không dám đòi hỏi những đổi thay quan trọng hơn. Từ bên ngoài, vì tư lợi hay kém hiểu biết một số người cũng nói đến nhu cầu bảo vệ sự ổn định mà mặc nhiên cổ võ cho nạn độc tài trong khi các lân bang đều cứ theo nhau khủng hoảng kinh tế hay chính trị mà tiến lên, và người dân của họ sống sung sướng hơn chẳng vì no đủ hơn mà còn vì có nhiều tự do hơn. Việt Nam tụt hậu chính là do sự bạc nhược đó.

Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, Việt Nam cần làm những gì để theo kịp các nước Đông Á khác"

Chúng ta phải có cả chục chương trình may ra mới có giải đáp cho câu hỏi đó!

Tuy nhiên, nếu nhìn ra thế giới ngày nay, ta thấy mọi tư tưởng hay sáng kiến đều có thể bị thách đố hay đào thải rất nhanh, nội trong vài năm chứ không phải vài chục năm hay vài chục thế kỷ như trước đây. Mọi quyết định về chính trị hay kinh tế đều có hiệu ứng lập tức và tác động ngược vào tiến trình quyết định và thi hành. Trong thế giới có những đổi thay đến chóng mặt như vậy mà mình vẫn cứ nói chuyện Nghiêu Thuấn mơ hồ hay bảo vệ thành quả cách mạng hoặc quyền lợi riêng tư bằng cách nhân danh ổn định thì sẽ tụt hậu, dân ta sẽ chỉ đi làm thuê cho thiên hạ trong những nghề họ chẳng thèm làm. Việt Nam sẽ còn bị khủng hoảng trong cái ảo tưởng ổn định như vậy. Mà sau trận khủng hoảng oan uổng đó vì thiếu tự do sẽ còn sự khủng hoảng toàn diện vì không dám lấy rủi ro cần thiết trong một chế độ dân chủ. Việc cần làm vì vậy là giải trừ sự sợ hãi. Chính là sự sợ hãi ấy mới khiến người ta bám lấy ảo tưởng ổn định và không dám cởi ách độc tài để tìm ra giải pháp sáng tạo hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
Quán bún bò 199 là chỗ dựa tài chính vững chắc giúp ông Lâm Kim Hùng (66 tuổi, Đồng Nai) nuôi hàng chục sinh viên nghèo hiếu học. Quán của ông vừa là nơi ăn ở miễn phí vừa là nơi tạo công ăn việc làm cho các bạn kiếm thêm thu nhập…May mắn trong việc kinh doanh, quán bún bò mang lại nguồn thu nhập ổn định. Thế nhưng, vì sống một mình, nên khoảng lợi nhuận ấy quá dư giả so với cuộc sống bình thường của ông. Nhận thấy cứ để dành tiền mãi cũng chẳng được gì nên ông quyết định giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.