Hôm nay,  

Ổn Định Không Phát Triển

27/06/200700:00:00(Xem: 9539)

...nhân danh ổn định sẽ tụt hậu, dân ta sẽ chỉ đi làm thuê cho thiên hạ trong những nghề họ chẳng thèm làm...

Tiếp tục tìm hiểu về những ảnh hưởng của vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á xảy ra đúng 10 năm về trước, Diễn đàn Kinh tế đài RFA kỳ này sẽ cố rút tỉa một số bài học cho Việt Nam qua cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, ngày mùng hai tháng Bảy năm 1997, tức là chỉ một ngày sau khi Hong Kong hồi quy cố quốc, một vụ biến động ngoại hối bất ngờ xảy ra tại Thái Lan và lập tức lan rộng qua Indonesia, Philippines, Malaysia, lên tới Nam Hàn và Hong Kong rồi tràn qua nhiều nước khác trên thế giới... Vụ khủng hoảng ấy khiến hàng loạt chính phủ Đông Á bị đổ và gây hậu quả bất lợi cho các nước. Chương trình tuần trước đã phân tách về các nguyên do. Kỳ này, xin đề nghị là ta sẽ cùng tìm hiểu về những hậu quả để rút tỉa bài học cho Việt Nam.

Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi: đâu là bài học then chốt của vụ khủng hoảng này"

Vụ khủng hoảng khiến người ta nhớ tới lý luận của một kinh tế gia người Áo là ông Joseph Schumpeter về sự “hủy diệt sáng tạo”. Ông ta đưa ra lý luận này cách đây đúng 65 năm, vào năm 1942, rằng chủ nghĩa tư bản là một sự sáng tạo không ngừng và chính sự sáng tạo ấy đã hủy diệt những thành quả của nguyên trạng và tạo ra những đổi thay tiến bộ hơn. Bàng bạc bên dưới lý luận này là tinh thần dân chủ và chống độc quyền như một động lực của sự tiến hoá. Sở dĩ tôi muốn nhắc tới lý luận nay đã thuộc loại sơ đẳng và không thể thiếu của kinh tế học nhập môn là vì cuộc khủng hoảng đã vạch trần một sai lầm lưu cữu về sự liên hệ giữa ổn định và phát triển.

Riêng với Việt Nam, điều này thật ra quan trọng vì nhiều người ở trong và ngoài nước vẫn còn lý luận rất sai là Việt Nam cần ổn định để phát triển. Chính là yêu cầu ổn định ấy đã cản trở tinh thần dân chủ, tính sáng tạo và chi phối thái độ hàng ngày của người ta đối với rủi ro của đời sống. Nôm na là sự ổn định khiến ta ươn hèn đi, là trở lực chống phát triển và duy trì chế độ độc tài hay độc quyền kinh tế. Chúng ta sẽ phải lần lượt giải thích để giải thoát ra khỏi ảo tưởng này.

Hỏi: Ông hay thường nêu ra những lý luận đầy nghịch lý. Vụ khủng hoảng năm 97-98 đã khiến hàng loạt quốc gia Đông Á bị chấn động, nhiều chính quyền bị đổ chứ có gì là sáng tạo đâu"

Thưa vâng, vụ khủng hoảng khiến chế độ độc tài Suharto tại Indonesia bị sụp đổ sau 32 năm độc quyền cai trị mà họ gọi là ổn định, như Việt Nam ngày nay. Nó khiến Chính phủ Yongchaiudh Chavalit vừa lên cầm quyền đã bị đổ tại Thái và dẫn tới nhiều thay đổi chính trị trong khu vực Đông Á. Trước đấy, vụ khủng hoảng kinh tế Nhật vào đầu thập niên 90 cũng khiến chính quyền của đảng Dân chủ Tự do bị đổ và phải lột xác sau 38 năm cầm quyền liên tục từ 1955 đến 1993.

Nhưng khủng hoảng cũng phá vỡ những ách tắc trong cơ chế chính trị và kinh tế, xoá bỏ tình trạng cấu kết giữa các tập đoàn kinh doanh và ngân hàng với bộ máy công quyền và các chính khách mị dân hay bất lương. Nó khiến người ta nhìn thấy sự phá sản của chiến lược kinh tế Đông Á sau mấy chục năm thành công ngoạn mục. Ngày nay, nền kinh tế của ngần ấy quốc gia đều đã khá hơn và phát triển công bằng hơn, và về xã hội vẫn hơn hẳn Việt Nam lẫn cả Trung Quốc.

Yếu tố chính của hiện tượng đào thải để tái sinh ấy chính là quy tắc dân chủ. Việt Nam chưa hiểu ra một bài học sơ cơ của kinh tế học và phát triển cho nên chúng ta sẽ còn phải giải thích nhiều.

Hỏi: Trước khi giải thích tiếp những nguyên lý mà ta xin tạm gọi là ổn định cản trở phát triển, hoặc trong sự hủy diệt đã có mầm sáng tạo và tiến bộ, chúng tôi đề nghị ông đưa ra vài thí dụ khác để thính giả thấy ra sự liên hệ giữa hai khái niệm tưởng như là mâu thuẫn này.

Đầu tiên, ta cần minh xác lại định nghĩa. Phát triển không là tăng trưởng vì bao hàm cả yếu tố tinh thần và phẩm chất. Trong 10 năm liền, Thái Lan đã có tốc độ tăng trưởng tới 9% một năm, tức là còn cao hơn Việt Nam ngày nay, trước khi bị khủng hoảng năm 1997.

Thứ hai, cái mà người ta gọi là sự ổn định có khi chỉ là sự tồn tại của một hệ thống lạc hậu.

Á châu chúng ta đã có sự ổn định man rợ của chế độ quân chủ và hệ thống giáo dục Khổng Nho và nó kéo dài cho tới khi bị thách đố bởi hệ thống tổ chức Tây phương. Hệ thống tổ chức Âu châu đã phá vỡ trật tự Á Đông không nhờ vì có đại pháo hay tàu chiến chạy bằng hơi nước. Những phát minh khoa học kỹ thuật đó sở dĩ thành hình là nhờ Âu châu đã tự giải phóng khỏi cái ách tôn giáo rồi chế độ quân chủ chuyên chính và tiến dần ra chế độ dân chủ.

Suy như vậy thì dường như thế giới loài người có bị chi phối bởi một quy luật then chốt là có tự do suy tư hay không, mà càng có nhiều tự do là càng dễ tiến hoá lên trình độ tốt hơn.

Hỏi: Nhưng, sự tự do ấy cũng nhất thời gây ra thay đổi, biến động hay khủng hoảng chứ"

Tôi thiển nghĩ là ta có ba tầng suy xét sự đổi thay, từ kinh tế lên chính trị và lên tới văn hoá.

Nếu có thể làm một phép quy nạp thì một vụ khủng hoảng kinh tế có khi gây xáo trộn trong khoảng thời gian từ năm đến 10 năm là cùng, nhưng nếu có xã hội có tự do và chính trị có dân chủ, thì kinh tế sẽ lại phát triển mạnh trên một nền tảng lành mạnh hơn của một xã hội công bằng hơn. Đó là tình trạng của các nước Đông Á đã bị khủng hoảng 10 năm trước.

Hàng ngày, ta nghe nói đến bất ổn chính trị tại Thái, hay rủi ro đảo chính tại Philippines nhưng kinh tế mấy xứ đó vẫn hơn Việt Nam quá xa và xã hội cũng công bằng gấp bội. Indonesia là xứ đa văn hoá và tôn giáo trải rộng trên 17 ngàn hòn đảo và bị khủng bố tấn công hai lần mà vẫn là quốc gia tiến bộ về dân quyền và giải trừ được ách tham nhũng đi cùng sự ổn định của chế độ Suharto. Người dân mấy xứ đó không sợ đổi thay và dù tầng lớp chính trị ở trên có tranh đoạt quyền bính thì xã hội dân sinh ở dưới vẫn có tự do sinh hoạt và ứng phó để tiến hoá, là trường hợp mà Việt Nam chưa có vì cả xã hội ở dưới e sợ đổi thay nên vẫn để lãnh đạo duy trì độc tài.

Hỏi: Ông nói đến ba tầng suy tư, sau kinh tế là chính trị và văn hoá, điều ấy có nghĩa là gì"

Thưa là sau kinh nghiệm về kinh tế của Á châu thì một sự thay đổi chính trị sẽ gây hậu quả bất ổn trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 năm. Sau đó tình hình sẽ có thể khá hơn nếu ta có dân chủ, đó là trường hợp phổ biến của các nước cộng sản Đông Âu sau khi chế độ Xô viết sụp đổ.

Ngoại lệ là Liên bang Nga, thoát ra khủng hoảng năm 1998 là nhờ dầu khí lên giá mà về căn bản vẫn là một xứ lạc hậu và không có dân chủ, thua kém rất xa các nước Ba Lan, Hungary hay Đức, hay ba nước Cộng hoà Baltic. Cường quốc duy nhất mà người dân không thiết tha đến tương lai và sự sinh tồn đến mức dân số sút giảm và băng đảng hoành hành chính là nước Nga ngày nay. Ông Vladimir Putin muốn tìm lại sự ổn định qua chế độ tập quyền kiểu bôn-sơ-vích dưới cái vỏ dân chủ mà vẫn sẽ khó tránh khỏi khủng hoảng trong một sự lụn bại kéo dài. Đây là một vấn đề văn hoá và vì là văn hoá nên thay đổi chậm hơn và di hại lâu hơn.

Hỏi: Dường như ông đang nói đến tầng suy tư thứ ba là văn hoá. Liệu chúng ta có cần một cuộc cách mạng văn hoá chăng"

“Cách mạng văn hoá” theo kiểu Mao chỉ là đòn phép chính trị của truyền thống Đông phương là dùng lực lượng phiên trấn bên ngoài để tranh đoạt quyền lực ở trung ương, hay trong đảng.

Trở lại đề tài của chúng ta thì quy luật chính ở đây là phải dám chấp nhận đổi thay cả chính trị. Mà sở dĩ không dám là vì yếu tố văn hoá. Việt Nam chưa thể đổi mới vì nếp văn hóa e sợ đổi thay sau khi đã nếm mùi chiến tranh oan uổng và cách mạng giả hiệu. Ngày nay, những ai kêu gọi thay đổi thường bị chế độ kết án là làm loạn, với sự đồng tình thụ động của người dân vì nhiều người Việt Nam cho rằng những nhân vật đấu tranh cho dân chủ đã gây ra bất ổn. Đó là khảo hướng tai hại về cách lượng định rủi ro và ứng phó với tương lai khi thế giới đã thay đổi.

Hỏi: Bây giờ, ta hãy rút tỉa bài học cho Việt Nam, đâu là những điều Việt Nam có thể học được từ vụ khủng hoảng Đông Á 10 năm về trước"

Từ trong khủng hoảng, người ta phải tìm giải pháp khác và có thể tìm ra giải pháp tốt đẹp hơn nếu có tự do. Cách đây 20 năm, Việt Nam bị khủng hoảng kinh tế nên phải tìm giải pháp khác chứ không còn bám lấy lý luận của kinh tế học Mác-Lenin. Nhưng trình độ tư duy của lãnh đạo và khuôn khổ tự do không có của dân chúng chỉ dẫn tới giải pháp đổi mới nửa vời. Và sau khi kiệt quệ vì lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi mới chỉ đủ vặt mũi bỏ mồm như các cụ ta hay nói thì người ta đã sợ mất và hết dám đổi thay. Mọi người đều không mấy hài lòng với nguyên trạng nhưng vẫn e sợ rủi ro và nhân danh sự ổn định bạc nhược và tụt hậu này không dám đòi hỏi những đổi thay quan trọng hơn. Từ bên ngoài, vì tư lợi hay kém hiểu biết một số người cũng nói đến nhu cầu bảo vệ sự ổn định mà mặc nhiên cổ võ cho nạn độc tài trong khi các lân bang đều cứ theo nhau khủng hoảng kinh tế hay chính trị mà tiến lên, và người dân của họ sống sung sướng hơn chẳng vì no đủ hơn mà còn vì có nhiều tự do hơn. Việt Nam tụt hậu chính là do sự bạc nhược đó.

Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, Việt Nam cần làm những gì để theo kịp các nước Đông Á khác"

Chúng ta phải có cả chục chương trình may ra mới có giải đáp cho câu hỏi đó!

Tuy nhiên, nếu nhìn ra thế giới ngày nay, ta thấy mọi tư tưởng hay sáng kiến đều có thể bị thách đố hay đào thải rất nhanh, nội trong vài năm chứ không phải vài chục năm hay vài chục thế kỷ như trước đây. Mọi quyết định về chính trị hay kinh tế đều có hiệu ứng lập tức và tác động ngược vào tiến trình quyết định và thi hành. Trong thế giới có những đổi thay đến chóng mặt như vậy mà mình vẫn cứ nói chuyện Nghiêu Thuấn mơ hồ hay bảo vệ thành quả cách mạng hoặc quyền lợi riêng tư bằng cách nhân danh ổn định thì sẽ tụt hậu, dân ta sẽ chỉ đi làm thuê cho thiên hạ trong những nghề họ chẳng thèm làm. Việt Nam sẽ còn bị khủng hoảng trong cái ảo tưởng ổn định như vậy. Mà sau trận khủng hoảng oan uổng đó vì thiếu tự do sẽ còn sự khủng hoảng toàn diện vì không dám lấy rủi ro cần thiết trong một chế độ dân chủ. Việc cần làm vì vậy là giải trừ sự sợ hãi. Chính là sự sợ hãi ấy mới khiến người ta bám lấy ảo tưởng ổn định và không dám cởi ách độc tài để tìm ra giải pháp sáng tạo hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.