Hôm nay,  

Vài Suy Nghĩ Nhân Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương

24/04/200700:00:00(Xem: 7109)

Kính thưa các bậc Trưởng thượng,

Thưa quý vị Quan khách,

Hôm nay, chúng ta tề tựu về đây để cùng nhau cử hành lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, tưởng nhớ công đức mở nước và dựng nước của tổ tiên chúng ta.  Ngày nay, nhất là ở hải ngọai, với tinh thần khoa học thực nghiệm, nhiều người cho rằng Hùng Vương chỉ là một truyền thuyết chứ không có thật trong lịch sử, vì người không thể sinh ra trứng, và trứng không thể nở thành người… Tuy thế, không thể quá đơn giản đánh giá truyền thuyết Hùng Vương chỉ bằng khoa học thực nghiệm.

Truyền thuyết Hùng Vương chính thức xuất hiện trong bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên vào thế kỷ 15.  Lúc đó, nhà Minh bên Trung Hoa vừa mới xâm chiếm nước ta từ năm 1407 đến năm 1428.  Tuy chỉ chiếm đóng trong khoảng thời gian trên 20 năm, nhưng chính sách đô hộ của nhà Minh rất thâm hiểm, nhất là chính sách văn hóa.  Vua Minh đã ra lệnh tịch thu và tiêu hủy toàn bộ sách vở của người Việt, kể cả các bia đá ghi lại công đức của tiền nhân.  Nhà Minh áp đặt văn hóa và phong tục Trung Hoa, phát hành rộng rãi sách vở kinh điển Trung Hoa.  Nếu sách vở của người Việt hoàn toàn bị tiêu hủy, thì người Việt phải sử dụng sử sách Trung Hoa, từ đó dần dần người Việt quên đi quá khứ của chính dân tộc mình.  Nhà Minh muốn đồng hóa người Việt và muốn biến nước Việt thành một quận huyện của Trung Hoa.  Âm mưu đen tối nầy cuối cùng thất bại trước sức đề kháng mạnh mẽ của người Việt lúc bấy giờ, do anh hùng Lê Lợi lãnh đạo.  Cuối cùng quân Minh phải về nước năm 1428, nước Việt lại độc lập.

Kính thưa quý vị,

Đặt lại xuất xứ của truyền thuyết Hùng Vương để hiểu vì sao truyền thuyết nầy xuất hiện trong dòng chính sử.  Để phản biện lại chính sách văn hóa thâm độc của nhà Minh, Ngô Sĩ Liên đưa truyền thuyết Hùng Vương vào chính sử sau thời kỳ Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, nhắm mục đích khẳng định lại căn cước của người Việt, bắt nguồn từ nhiều ngàn năm trước, với nền tảng vua Hùng lập quốc, độc lập ngay từ lúc con người mới tập hợp thành xã hội, với những vị vua Hùng cai trị lâu dài, không thua kém gì thuở ban đầu của lịch sử Trung Hoa.

Tuy nhiên, cho đến nay, có hai vấn đề mà sử sách vẫn chưa làm sáng tỏ về âm mưu của người Bắc phương nói chung.  Thứ nhất là phong tục cưới hỏi, và thứ hai là việc trồng lúa gạo của người Việt.  Cả hai vấn đề nầy đều xuất phát từ bộ sách Hậu Hán thư, viết vào thế kỷ thứ 5 bên Trung Hoa.  Sách nầy nói rằng người Trung Hoa đã dạy cho dân Việt phép cưới hỏi, và người Trung Hoa đã dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy.

Về vấn đề phép cưới hỏi, cho đến nay chưa có tài liệu cụ thể nào về phong tục cưới hỏi của người cổ Việt.  Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, trước thời Triệu Nữ Vương tức trước thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên (CN), có thể người cổ Việt theo mẫu hệ.(Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, Viet Publisher, 1989, tr. 19.)  Như thế phải chăng Trung Hoa muốn áp đặt chế độ phụ hệ vào xã hội cổ Việt" 

Dầu xã hội cổ Việt theo mẫu hệ hay theo phụ hệ, những nhà đô hộ Trung Hoa thời cổ sử đã buộc dân Việt theo cách thức cưới hỏi của Trung Hoa, nghĩa là không phải tự do cưới hỏi như trước, mà dân Việt phải theo thủ tục hộ tịch của nhà cầm quyền Trung Hoa.  Làm như thế, những nhà cai trị Trung Hoa nhắm hai mục đích:  Thứ nhất kiểm soát dân số và an ninh xã hội cổ Việt.  Thứ hai đánh thuế người Việt theo từng hộ.  Thời xa xưa chưa có thuế thân, chỉ có thuế hộ.

Về vấn đề người Trung Hoa đã dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy, là một bóp méo lịch sử Việt của người Trung Hoa.  Một câu hỏi được đặt ra là:  người Trung Hoa thời xưa lập nghiệp ở vùng sông Hoàng (Hoàng hà), trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô, làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng nước hơn người Việt mà dạy người Việt"

Gần đây, những kết quả khảo cứu của các học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Hoa và cả Việt Nam, cho thấy rằng trung tâm đầu tiên của nền văn minh lúa nước trên thế giới là Đông nam Á.  Cũng theo các tác giả trên, tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á là khu vực Hòa Bình, Bắc Việt. (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86.)  Hòa Bình nằm trong vùng uốn khúc sông Đà đổ lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc, Phú Thọ) quận Giao Chỉ thời cổ Việt.

Trong sách Ancient China, tác giả Edward H. Schafer viết rằng: “ Thuật trồng lúa gạo và thuần hóa gia súc chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các sắc dân tầm thường ở miền nam xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (Nguyên văn: “The art of cultivating rice and domesticating cattle were doubtless adopted from the despised races of the remote south.” (Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, p. 16.)

Cũng nhà nghiên cứu nầy cho rằng Đức Khổng Tử (551-478 TCN) “sống chủ yếu bằng lọai bánh làm bằng kê”. (nguyên văn: “Confucius have subsisted chiefly on millet cakes.”.  Ngòai ra, “Khổng Tử chưa bao giờ thưởng thức trà, và cũng đáng ngờ rằng Vương Xung, sáu thế kỷ sau cũng thế.” (nguyên văn: “Conficius never tasted tea, and it is doubtful that Wang Ch’ung, six centuries later, did either.”(Edward H. Schafer, sđd. tt. 37-38.)

Theo những tài liệu mới được phát hiện, tại Mê Linh, quận Giao Chỉ, người ta tìm thấy những bộ xương trâu đã có mặt tại đây khoảng 2,000 năm TCN, và hai lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn (thế kỷ thứ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN), dùng cho trâu cày. (Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam, University of California Press, 1983, p. 35.)

Điều đó có nghĩa là dân Lạc Việt đã biết làm ruộng lúa nước và biết sử dụng điền khí trước khi người Trung Hoa xâm lăng cổ Việt.  Lúc đó, dân Lạc Việt dùng lưỡi cày bằng đồng vì đồ đồng là nghề luyện kim chính của dân Lạc Việt, vốn nổi tiếng về trống đồng, và nhất là đồ sắt bị hạn chế, do việc bà Lữ hậu nhà Hán đã ra lệnh cấm xuất cảng sắt xuống phía nam Trung Hoa từ năm 183 TCN. 

Như thế, không phải người Trung Hoa đã khai tâm dân Việt trong việc trồng lúa nước, mà người Việt đã tự mình biết cách canh tác để sản xuất nông phẩm cho cuộc sống của chính mình. Chẳng những thế, người Trung Hoa còn học trồng lúa nước từ những người ở phương Nam, trong đó có dân Lạc Việt.

Hai câu chuyện trên đây cho thấy, ngay từ đầu, sử sách Trung Hoa cố tình cho rằng chính Trung Hoa đã khai hóa dân Việt, trong khi như Nguyễn Trãi đã viết: “Sơn hà cương vực đã chia; phong tục bắc nam cũng khác.” (Bình Ngô đại cáo).  Đó là lý do tại sao vào thế kỷ 15, sau thời Minh thuộc, truyền thuyết Hùng Vương được Ngô Sĩ Liên trình bày thành một triều đại mở đầu quốc thống của dân tôc Việt.  Truyền thuyết nầy nhắm khẳng định một điều, là ngay từ thuở bình minh của lịch sử loài người, người Việt đã đứng ra hùng cứ một phương, với triều đại Hùng Vương, truyền được hơn hai ngàn năm lịch sử.

Từ đó, truyền thuyết Hùng Vương trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt, kiến tạo niềm tin tinh thần và tâm linh vững mạnh vào truyền thống cao cả và anh hùng của dân tộc, để mọi người hăng hái, hy sinh bảo vệ và xây dựng đất nước.  Chính nhờ niềm tự hào dân tộc trên đây, người Việt đã đứng vững suốt mấy ngàn năm qua, vượt thóat bao nhiêu gian nan thử thách, nhất là những cuộc xâm lăng của ngọai bang. 

Hiện nay, Trung Hoa Cộng Sản vẫn tiếp tục thái độ bá quyền của vua chúa Trung Hoa ngày trước, uy hiếp biên giới Bắc Việt và uy hiếp Trường Sa, hải đảo của đất nước chúng ta.  Đáng lẽ phải tập trung tổng lực dân tộc để đối phó với ngoại bang theo truyền thống Phù Đổng thời Hùng Vương, nhà nước Cộng Sản Việt Nam lại quay qua đàn áp các nhà tranh đấu dân chủ trong nước, mà hình ảnh tiêu biểu nhất là hình ảnh linh mục Nguyễn Văn Lý bị bóp miệng tại phiên tòa ở Huế ngày 30-3- vừa qua.

Kính thưa quý vị,

Hôm nay, nhân lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, ôn lại lịch sử nước ta thời cổ đại để hiểu rõ thêm giá trị của truyền thuyết Hùng Vương, nhớ ơn công đức mở nước và dựng nước của tổ tiên, những người Việt ở hải ngọai chúng ta hãy lắng lòng nhìn về quê hương yêu dấu, cùng nhau đoàn kết, ủng hộ những nhà tranh đấu dân chủ, dân quyền ở trong nước, chống lại cường quyền cộng sản toàn trị.  Hy vọng hào khí dân tộc bắt nguồn từ truyền thuyết Hùng Vương, là ngọn lửa thiêng dẫn dắt người Việt một lần nữa, chiến thắng nghịch cảnh, và xây dựng một ngày mai tươi sáng cho đất nước chúng ta. 

Xin trân trọng cảm tạ quý vị đã lắng nghe, và xin kính chào quý vị.

Mississauga, 22-4-2007

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.