Hôm nay,  

Thư Gửi Người Bạn Thụy-điển

09/01/201000:00:00(Xem: 5433)

Thư gửi người bạn Thụy-Điển

Trần Tam Tiệp
Cựu Không Quân VNCH; Nhà văn, nguyên đồng sáng lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thuộc Văn Bút Quốc Tế; Thành viên  The International PEN Writer in Prison (Uỷ Ban Bảo Vệ Nhà Văn Bị Cầm Tù thuộc Văn Bút Quốc Tế.
Để tưởng niệm nhà văn vừa  từ trần tại Paris, trân trọng mời đọc lại một bài viết của ông.  Bản anh ngữ của bài này đã được phổ biến ở Thụy Điển.

 Trong khung-viên đầy nắng của thánh-đường San Giorgio ở Venise, tôi được hân-hạnh tiếp chuyện với Marianne E. và Inger A. trong phái đoàn Văn-bút Thụy-Điển đi dự Đại-hội Văn-bút Quốc-tế do Văn-bút Ý tổ-chức, và trong câu chuyện trao đổi về việc Văn-bút Thụy-điển chấp-thuận mời một nhà văn Việt-Nam hiện còn đang bị giam-cầm làm hội viên danh-dự của Văn-bút Thụy-Điển, chúng tôi có thảo-luận qua về tình-hình hiện tại ở Việt-Nam. Và từ câu chuyện trao đổi này, tôi có ý-định viết bức thư này gửi đến cho bạn, một người bạn Thụy-Điển tôi chưa từng được quen biết, nhưng từ năm 1970 hồi còn ở Việt-Nam và đến nay 1983, người Việt-Nam chúng tôi vẫn nói nhiều về Thụy-Điển.
 Trước hết tôi xin tự giới-thiệu: Tôi là một trong số một triệu người Việt-Nam phải rời bỏ quê-hương khi quân-đội Cộng-sản toàn chiếm nước tôi; nhưng trước đó, từ năm 1946 đến năm 1950 tôi đã gia-nhập kháng-chiến để chống lại thực-dân Pháp; sau đó dưới chính-quyền Nguyễn Văn Thiệu, đã dùng ngòi bút để chống lại những bất-công, tệ-đoan xã-hội, và hai cuốn sách của tôi viết về chính-sách của Hoa-Kỳ: "Hoa-Kỳ Bốc Lửa" và "Đế-Quốc Xanh" đã không được chính-quyền Nguyễn Văn Thiệu cho xuất-bản, nên phải quay "ronéo" để đồng-bào tôi được đọc.
Sở-dĩ tôi phải tự giới-thiệu như vậy, để anh chị thấy tôi không thuộc một đảng-phái chính-trị nào, mà chỉ làm bổn-phận của một công-dân yêu nước, chống lại những xâm-lăng của ngoại-quốc; làm bổn phận khi đất nước cần đến mình, luôn luôn tranh-đấu cho tự-do, cho lẽ phải và công-bình.
Thưa các anh chị, trong những năm xảy ra cuộc chiến giữa hai khối Tư-bản và Cộng-sản mà Việt-Nam chúng tôi là nơi (mà) hai bên dùng để thí-nghiệm vũ-khí mới sáng-chế, hay là dùng đất nước tôi như một con bài chính-trị, thì hầu hết nhân-dân Thụy-Điển đã ngả về khối Cộng-sản vì các anh chị đều nghĩ và tin là người Cộng-sản Việt-Nam đang dẫn-đạo một cuộc "thánh-chiến", một cuộc chiến-đấu để giải-thoát dân-tộc ra khỏi tay Hoa-Kỳ, một thứ thực-dân mới. Không riêng gì dư-luận Thụy-Điển, mà hầu hết dư-luận thế-giới đều nghĩ theo lập-luận trên.
Báo-chí, truyền-hình, tuyền-thanh đã bị mua chuộc, đầu-độc để viết những bài, những phóng-sự có lợi cho Cộng-sản; trong khi Hoa-Kỳ, năm 1969 sau khi bắt tay được với Trung-Cộng, con bài quân-sự dùng Việt-Nam để khống-chế Trung-Cộng không còn cần thiết nữa, họ đã quyết định bỏ rơi miền Nam Việt-Nam cho Cộng-sản để đánh đổi hòa-bình ở Trung-đông. Nhân dân không theo CS phải chiến-đấu một mình, không được sự giúp đỡ của người bạn đồng-minh lúc ban đầu là Hoa-Kỳ; ngoài ra, dư-luận ngoại-quốc lại quá ác-nghiệt với họ qua hành-động bất-xứng của một vài cá-nhân lãnh-đạo; vì thế việc gì bắt buộc xảy ra, đã xảy ra, đó là ngày 30-04-1975, ngày miền Nam Việt-Nam rơi vào tay Cộng-sản.
Tất cả thế-giới, trong đó có các bạn, đã sung-sướng thở-phào vì chiến-tranh đã chấm dứt tại Việt-Nam, và nghĩ là mình đã nghĩ đúng, ủng-hộ đúng là đã giúp cho dân-tộc Việt-Nam, đánh đuổi được thực-dân Hoa-Kỳ cũng như năm 1954 đã đánh đuổi được thực-dân Pháp; và sau ngày 30-04-1975, chính-phủ Thụy-Điển và một số các nước khác đã tới tấp viện-trợ nhân-đạo cho Việt-Nam để hàn gắn những vết thương đó, gây ra bởi chiến-tranh, để xây-dựng và kiến-thiết lại một xứ-sở mà nhiều năm không lúc nào ngừng tiếng súng.
Chính-phủ các nước tự-do trên thế-giới, trong đó có Thụy-Điển, đã gửi chuyên-viên sang xây-cất nhà thương, nhà máy giúp Việt-Nam tái-thiết. Các bạn Thụy-Điển hẳn trong lòng còn giữ hình ảnh Thủ-tướng Phạm Văn Đồng, trong những năm còn chiến-tranh ở Việt-Nam, khi đến Thụy-Điển đã cùng các bạn trẻ xuống đường, rước đuốc ở Stockholm để đòi hòa-bình cho Việt-Nam.
Ôi còn sung-sướng, còn hài lòng nào hơn khi chính mình đã góp sức, góp công, góp của vào việc mang lại hòa-bình, giải-phóng, thống-nhất cho một dân-tộc mấy chục năm chìm-đắm trong chiến-tranh.
Nhưng từ sau 30-04-1975, các bạn đã thấy những gì xảy ra tại Việt-Nam"
Hòa-bình đã thật sự trở lại Việt-Nam chưa khi hàng triệu thanh-niên nam nữ, thay vì được thay đổi bộ quân-phục mà mấy chục năm họ phải mặc để chiến-đấu hết chống Pháp rồi chống Mỹ, bây giờ họ vẫn phải mặc để sang xâm-chiếm Kampuchéa, Lào hoặc trấn-đóng dọc theo biên giới Việt-Hoa; mà đáng lẽ họ phải được cắp sách đến trường, đến xưởng, ra đồng ruộng để học, để làm việc, xây-dựng lại một nước Việt-Nam đã kiệt-quệ vì chiến-tranh và quá lệ-thuộc vào người ngoại-quốc.
Đêm đêm không còn tiếng bom, tiếng hỏa-tiễn nổ tan xác trẻ em, đàn bà; ban ngày không còn xe tăng cày nát mặt đường và cũng không còn tiếng phi-cơ xé không-khí mang theo chết-chóc cho dân-tộc Việt-Nam. Những người trẻ Việt-Nam đâu được xum họp cùng gia-đình, mang sức ra để tái-thiết quê-hương; trái lại, họ phải sang Miên, Lào để thực-hiện cho bằng được giấc mộng cuồng-ngông: xát nhập Miên, Lào vào Việt-Nam để tạo thành một căn-cứ địa quan-trọng cho Nga-xô sử-dụng để khống-chế Thái-Bình-Dương và Ấn-Độ-Dương; hoặc ra ngoại-quốc tại vùng băng lạnh Tây-Bá-Lợi-Á mang sức lao-động để trả nợ (chiến-phí) cho Nga-Xô.
Hòa-bình đã thực-sự trở lại Việt-Nam chưa"
Khi hàng trăm ngàn công-chức, quân-nhân thuộc chế-độ cũ còn bị giam tại các trại cải tạo" Thậm chí các nhà trí-thức, văn-nghệ-sĩ dù ở chế-độ trước không làm gì cũng bị bắt giam từ ngày đầu 30-04-1975 cho đến bây giờ vẫn chưa được xét-xử.
Phạm Văn Đồng đã tuyên-bố: "Làm gì có biển máu khi chúng tôi chiến-thắng miền Nam Việt-Nam". Đúng, không có biển máu, nhưng thay vào đó là biển nước mắt do hận-thù gây ra. Hình ảnh một biển máu ở Kampuchéa do Pol Pot gây ra đã dã-man, ghê sợ, nhưng biển nước mắt còn tàn-ác, độc-ác gấp ngàn lần, bởi máu đổ ra hết sẽ tới cái chết giải-thoát. Nhưng nước mắt đổ ra, người vẫn còn sống, sống trong tủi-nhục, trong tận cùng đau khổ, để rồi khi lượng nước mắt đầy bằng lượng máu nghĩa là kéo dài tủi-nhục hàng năm, họ mới có thể lấy cái chết làm phương-tiện giải-thoát cho họ mà thôi. Chết dần, chết mòn trong một thế-giới, trong một đất nước của chính mình mà mình không có quyền nhận là quê-hương của mình nếu không phải là người của nhà nước, của Đảng. Không có cuộc trả thù bằng súng đạn, bằng máu, nhưng đã xảy ra cuộc trả thù thâm-độc, tàn-ác hơn của một giai-cấp thống-trị mới đối với toàn-thể dân-chúng, với tất cả người dân có chút dính-líu tới chính-quyền cũ.


Sau tám năm thống-nhất, hòa-bình, số người trong quân-đội cũng như hành-chánh, văn-nghệ-sĩ còn bị giam giữ trên 200 ngàn người, như thế ta còn có thể tin vào chính-sách hòa-hợp của nhà cầm quyền CSVN được không"
Thưa các anh chị, cuộc thanh-trừng, trả thù bằng máu, nước mắt và đói khát dù dã man, đau khổ nhưng chỉ là cuộc trả thù nhất thời, có thể một thế-hệ, hay cùng lắm là hai thế-hệ người dân Việt-Nam sẽ chết để Cộng-sản tạo một lớp người khác hoàn-toàn theo ý muốn của họ. Nhưng bên cạnh đó, có một cuộc trả thù thâm-độc hơn nhiều, không có máu đổ, không có nước mắt rơi, không có bụng đói, cật rét nhưng tàn-khốc vô cùng, đó là cuộc triệt-hạ, tiêu-hủy hết tất cả công-trình văn-hóa từ khi lập quốc đến nay ở các thư-viện, nhà bảo-tàng ở miền Nam.
Người CS đã ra lệnh cho đốt hết tất cả những tài-liệu lịch-sử, những công-trình sáng-tác, những áng văn-chương có từ hàng nghìn năm trước, được mang từ ngoài Bắc vào trong miền Nam năm 1954 và được nâng-niu cất giữ vì những cái đó là nhân-chứng cho nền văn-hóa, văn-minh Việt-Nam. Họ đã ra lệnh đốt hết, những vật báu ở Bảo-tàng-viện được mang về nhà họ làm của riêng hay bán ra ngoại-quốc lấy tiền bỏ túi; ngoài ra họ còn bắt giam tất cả văn-nghệ-sĩ để những người này không còn sáng tác được nữa, và thay vào đó, những người lãnh-đạo Việt-Nam, viết lại lịch-sử Việt-Nam, theo biện-chứng Karl Marx.
Lịch-sử hơn bốn ngàn năm của Việt-Nam được viết lại do những ngòi bút của của Đảng Cộng-sản, do chỉ-thị của Đảng đề ra, và bây giờ người dân Việt ở tại Việt-Nam phải học lịch-sử Việt-Nam với thời kỳ dựng nước bắt-đầu từ hang Pắc Bó, chỗ Hồ Chí Minh trú-ngụ khi đánh thực-dân Pháp.
Người lãnh-đạo VN dùng nhà tù để tiêu-diệt từ từ tất cả những người cầm bút yêu chuộng tự-do không  theo chủ-trương của họ, và họ đang thành-công vì số văn-nghệ-sĩ trong trại cải-tạo còn rất nhiều; số được thả rất ít mà lại quá bệnh tật, có người về đến nhà là chết như nhà thơ lừng-danh Vũ Hoàng Chương, hay phải tự-tử trong tù như nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.
Thưa các anh, các chị, sau ngày 30-04-1975, trên đất nước các bạn, ra ngoài đường hay đi du-lịch, chắc chắn đã có dịp các bạn gặp hoặc nhìn thấy một số người Việt-Nam. Các bạn chấp-nhận cho họ tỵ-nạn tại đất nước các bạn nhưng nhiều khi các bạn thắc-mắc là tại sao hòa-bình, thống-nhất, đánh đuổi hết thực-dân Pháp, đế-quốc Mỹ, sao những người này không ở lại để kiến-thiết, xây-dựng lại nước nhà mà lại bỏ ra đi" Phải chăng đây là mhững phần-tử lười biếng, sợ đói, sợ khổ, trốn ra ngoại-quốc trong khi đất nước họ cần tất cả mọi bàn tay để hàn gắn lại vết thương do chiến tranh gây ra" Thưa các bạn, trước khi trả lời câu này, xin các bạn cho phép tôi trở lại một giai-đoạn đau khổ của lịch-sử Việt-Nam, đó là nạn đói năm 1945:
Ở miền Bắc Việt-Nam, khi người Nhật thay thế người Pháp cầm quyền, bắt dân phá lúa để trồng đay lấy sợi. Hệ-thống giao-thông giữa Nam, Bắc bị phi-cơ đồng-minh dội bom làm hư-hại, nên gạo miền Nam không mang ra tiếp-tế miền Bắc được, phải đốt thóc để chạy máy xe lửa. Kết-quả là hai triệu dân miền Bắc bị chết đói do phát-xít Nhật và thực-dân Pháp gây ra.
Hai triệu người chết đói quả là một thảm-cảnh lớn của nhân loại, nhất là ở một nước bấy giờ co ùkhoảng 20 triệu dân, 10% chết vì đói.
Nhưng không một người dân Việt-Nam nào, tôi xin khẳng-định là không một người Việt-Nam tính chuyện bỏ nước ra đi. Người Việt-Nam chúng tôi sống gần-gũi, thân-thiết với ruộng đất, nhà cửa, mồ mả ông bà, cha mẹ; phong-tục, tập-quán như gắn liền họ vào quê-hương, vì thế từ làng ra tỉnh để học hành hay lập nghiệp đối với một số người đã là cuộc phiêu-lưu to-tát.
Tâm-tình người Việt-Nam đã như vậy thì tai sao sau ngày 30-04-1975 hàng triệu người đã ùn-ùn bỏ nước ra đi" Họ sẵn-sàng từ bỏ mọi thân-thiết nhất của họ, bỏ lại tất cả mọi ràng-buộc để ra đi. Ngoài con số một triệu người may-mắn sống-sót và hiện định-cư rải-rác khắp nơi trên thế-giới, còn có ít nhất trên hai triệu người đã đã bỏ mình nơi biển cả hay vì đói khát ở rừng sâu, nước độc trong lúc tìm đường lánh nạn Cộng-sản. Có phải vì sợ đói mà họ ra đi như lời tuyên-truyền của những nhà lãnh-đạo CSVN thường rêu-rao không" Hay tại họ sợ khổ" Không, đến cái chết là một thứ đáng sợ nhất, dù biết trước đi thì 90% chết, chỉ hy-vọng 10% sống, thế sao không có ngày nào là không có người vượt biên tìm tự-do"
Chính-sách khắc-nghiệt, thù-hằn của CSVN đã làm cho dân-chúng Việt-Nam phải bỏ nước ra đi, dù họ biết đi có thể chết bởi muôn ngàn hiểm-nguy trên biển cả. Phải có một cái gì dễ sợ, tàn bạo hơn cái chết mới làm họ đi vào cái chết để tìm cái sống. Hàng ngàn người con gái Việt-Nam đã bị quân cướp biển bắt, hãm-hiếp rồi bán vào các nhà điếm. Hàng trăm ngàn người hiện ở trong các trại giam để cho các nước định-đoạt số-phận họ; những người may mắn hơn, đến được Âu-châu hay Hoa-Kỳ đang sống một cuộc sống của con người máy; họ sống như người chết biết cử-động mà thôi, bởi tâm-tư họ luôn luôn hướng về quê-hương.
Trong số hơn một triệu người tỵ-nạn ở hải-ngoại, chưa chắc đã có năm ngàn người được dùng đúng khả-năng của mình trước kia ở Việt-Nam.
Thưa các bạn, qua báo-chí, chắc các bạn đã rõ phần nào số tặng-phẩm của nhân-dân Thụy-Điển cho nhân-dân Việt-Nam như những vật-dụng để xây nhà thương, nhà máy, đã không thực-hiện được vì bị các cán-bộ Cộng-sản lấy cắp mang đi bán, hay vì lý do nào đó họ vẫn chưa chịu cho xây cất để cho các vật-liệu này hư-hỏng hết vì mưa nắng. Có thể họ thiếu chuyên-viên hay nhân-công chăng"
Thế thì tại sao họ còn bắt hơn 200 ngàn thanh-niên qua Kampuchéa, 80 ngàn qua Lào và hàng mấy trăm ngàn đóng dọc theo biên-giới Việt-Hoa" Vụ xâm chiếm Lào và Kampuchéa để sát-nhập vào Việt-Nam chắc chắn đã làm cho cả thế-giới và các bạn phải đặt câu hỏi: "Ngày xưa mình giúp họ tranh đấu cho tự-do, cho sự-nghiệp giải-phóng quê-hương họ thoát khỏi ách thống-trị của ngoại-bang, nay họ lại trở thành những kẻ đi xâm-chiếm và thống-trị người khác, làm cho dân chúng nghèo đói, hàng trăm ngàn người vô tội bị giam cầm trong các nhà tù mệnh-danh là Trại Cải-tạo. Tình-trạng Việt-Nam ngày hôm nay, không hiểu chúng ta có chút trách-nhiệm gì trong đó chăng""
Tôi không dám cao-vọng viển-vông là yêu-cầu các bạn xét-xử lại ý-kiến của các bạn về Việt-Nam hay bắt các bạn gánh chút trách-nhiệm nào đó về những gì đang xảy ra ở quê-hương chúng tôi, nhưng xin được viết lại nơi đây lời của một nữ-văn-sĩ đã viết cho Văn-bút Thụy-Điển như sau:
"Thụy-Điển từ trước đến nay vẫn được chúng tôi coi như Quê-hương của Hòa-bình Nhân-loại, ngọn đuốc Tự-do cho Thế-giới, xin hãy giúp dân-tộc chúng tôi nhìn lại được ánh sáng của Tự-do."
Riêng tôi, tôi chỉ xin được làm quen cùng các bạn và xin được cùng các bạn tiếp-tục chiến-đấu cho một lý-tưởng chung: Tự-do và Hòa-bình cho tất cả mọi người.
Kính chào các bạn.
Trần Tam Tiệp

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.