Hôm nay,  

Chuyến Đi Sứ Tàu Gian Nan Của TT Nguyễn Tấn Dũng

10/21/200800:00:00(View: 15086)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 

Trần Bình Nam

 

Trong bối cảnh quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc có chiều căng thẳng trong những tháng gần đây, giới quan sát quốc tế đặt câu hỏi  chuyến công du Bắc Kinh của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ ngày 20 đến ngày 25/20/2008 này sẽ có mầu sắc như thế nào. Một chuyến đi để bày tỏ sự thần phục phương Bắc thêm nữa hay một chuyến đi để xác định vị trí, chủ quyền và quyết tâm bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam.

 

Trong lịch sử Việt Nam, không có chuyến đi sứ nào sang Trung quốc mà không được xem là đi “chầu” nước lớn. Chầu để xin được phong vương. Chầu để đạt một thỏa thuận nào đó thường là thỏa thuận lép vế về phía Việt Nam. Và trớ trêu là có khi còn đi chầu để giảng hòa mặc dù vừa đánh cho quân Tàu tan tác.

 

Trong lịch sử quan hệ Việt – Trung, Trung quốc ít khi tiếp sứ Việt Nam trong thời kỳ căng thẳng. Sau trận đánh biên giới tháng 2/1979, Trung quốc không tiếp sứ Việt Nam cho đến năm 1990 sau khi Liên bang Xô viết sắp sụp đổ mới tiếp đại diện Việt Nam do nhu cầu làm hòa của hai nước (nhưng chỉ tiếp một cách xuống cấp tại Thành Đô, một thành phố phía tây nam của Trung quốc cách xa thủ đô Bắc Kinh 1450km).

 

Từ đó cho đến nay (hay ít nhất cho đến giữa năm 2006, trước đại hội 10 của đảng cộng sản Việt Nam) hai bên tiếp sứ liên miên, và năm 1999 do sáng kiến của  Giang Trạch Dân, Chủ tịch nước và Bí thư đảng cộng sản Trung quốc, trong một chuyến thăm viếng của Tổng bí thư Lê Khả phiêu đã công thức hóa quan hệ giữa hai nước bằng 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai.” Và gần đây Hồ Cẩm Đào thêm bốn tiêu chuẩn “Láng giềng tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt và Đối tác tốt.”

 

Hiện nay quan hệ chính thức giữa Trung quốc và Việt Nam vẫn là quan hệ “16 chữ vàng” nhưng quan hệ thật sự đã có chiều căng thẳng do tham vọng lấn chiến đất đai Việt Nam của Trung quốc: đất liền nơi biên giới, vùng biển trong vịnh Bắc Việt, và hiện nay là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và gần đây là sự can thiệp của Trung quốc khi hãng dầu ExxonMobil của Hoa Kỳ định ký giao kèo với Việt Nam khai thác dầu khí ngoài khơi biển Đông. (*)

 

Trong bối cảnh đó chuyến công du Trung quốc của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ là một “chuyến đi sứ” gian nan đòi hỏi nhiều bản lãnh nơi ông Dũng.

 

Chuyến đi Bắc Kinh cuối tháng 5/2008 vừa rồi của ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh có thể xem là chuyến đi lót đường làm dịu cho chuyến công du Hoa Kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sau đó.

 

Qua thông cáo chung Việt – Trung hai vị Tổng bí thư tái xác nhận quan hệ “16 chữ vàng”, và cam kết với nhau bằng những lời lẽ tốt đẹp nhất có thể có trong một văn bản ngoại giao.

 

Nhưng chuyến công du Hoa Kỳ vào tháng 6/2008 của ông Dũng đánh dấu một cách công khai và cụ thể quan hệ chặt chẽ về an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Thông cáo chung giữa hai nước khẳng định rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là một  quan hệ chính trị liên quan đến chiến lược, an ninh, quốc phòng và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

 

Sự khẳng định đó diễn ra trong khung cảnh có những biến cố và biến chuyển chính trị trên biển Đông làm cho quan hệ Việt – Trung trở nên căng thẳng như:

 

- Tháng 12/2007 Trung quốc công bố ý định thành lập thành phố Tam Sa cấp huyện sát nhập vào tỉnh Hải Nam bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

 

- Ngày 1/6/08 tại hội nghị thượng đỉnh về an ninh Á châu ở Singapore bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates tuyên bố Hoa Kỳ không quên cam kết của mình đối với an ninh và ổn định tại Á châu.

 

- Trung quốc âm thầm (trong những tháng đầu năm 2008) áp lực công ty ExxonMobil chấm dứt các dự tính dò tìm và khai thác dầu khí với Việt Nam.

 

- Phản ứng mạnh mẽ của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ rằng việc làm ăn của ExxonMobil với Việt Nam là chính đáng và theo đúng luật lệ  quốc tế.

 

- Việt Nam chính thức yêu cầu công ty ExxonMobil tiếp tục các dự tính giao kèo với Việt Nam bất chấp lời cảnh cáo của Trung quốc.

 

Cho nên lời lẽ trong bản thông cáo chung Việt Mỹ không phải là những lời lẽ ngoại giao bình thường như thường thấy trong các thông cáo chung. Nó có ý nghĩa chiến lược rằng Việt Nam đang điều chỉnh chính sách ngoại giao và quốc phòng để tự vệ trước sự xâm lấn của Trung quốc với sự hứa hẹn nhập cuộc nào đó của Hoa Kỳ.

 

Sau chuyến đi Hoa Kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các giới chức cao cấp của Việt Nam bắt đầu tỏ thái độ mạnh dạn hơn. Ông Vũ Dũng, thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam (tháng 8/2008) tuyên bố rằng các khu biển Việt Nam đang ký kết khai thác dầu khí với hãng dầu ExxonMobil của Hoa Kỳ hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, và ông Vũ Dũng nói một cách khẳng định “quyền của chúng ta thì chúng ta làm”. Và mới đây trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Lý Kiến Trúc, một nhà báo tại hải ngoại, ông đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Lê Công Phụng nói về cuộc thương thuyết đất đai biên giới đã dùng những lời lẽ khá nặng nề đối với Trung quốc.

 

Các động thái của thứ trưởng Vũ Dũng và ông đại sứ Lê Công Phụng không phải là những hành động do sáng kiến cá nhân, mà là một cách bày tỏ lập trường ngoại giao của Việt Nam.

 

Qua đám mây mù đó, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Tàu. Và đây cũng là cuộc gặp gỡ đầu tiên mặt đối mặt giữa cấp lãnh đạo cao cấp của hai nước sau một thời gian âm ỉ tranh chấp và lời qua tiếng lại giữa hai nước.

 

Theo chương trình thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Bắc Kinh dự hội nghị Âu-Á gọi là hội nghị ASEM (**), và nhân thể đáp lời mời của thủ tướng Ôn Gia Bảo thăm viếng chính thức Trung quốc. Hai vị sẽ hội đàm với nhau trong hai ngày 24 & 25/10/2008 và theo thông báo của tòa đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh cũng như của văn phòng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội ông Dũng sẽ chính thức ký bản văn về biên giới đất liền đã được cắm mốc giữa hai nước và “… còn cốt để thắt chặt mối quan hệ chiến lược giữa hai nước và sẽ cùng trao đổi bàn bạc một số vấn đề quan trọng hai nước đang cùng quan tâm.”

 

Các vấn đề quan trọng hai bên đều quan tâm là vấn đề gì nếu không phải là vấn đề chủ quyền các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà điểm nổi cộm là quần đảo Trường Sa và vụ lời qua tiếng lại về việc khai thác dầu khí trong vùng biển đó"

 

Trung quốc sẽ đem miếng mồi mậu dịch (***) nếu không muốn nói phối hợp với áp lực quân sự để thuyết phục Việt Nam nhượng bộ về vấn đề Trường Sa và vấn đề khai thác dầu khí trên biển Đông cũng như các vấn đề chiến lược khác.

 

Trong bối cảnh đó chuyến đi Tàu lần này của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có một tầm quan trọng và một ý nghĩa đặc biệt. Sắc thái và kết quả của  các cuộc trao đổi của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Bắc Kinh sẽ đánh dấu một bước ngoặc trong quan hệ hai nước, một thứ quan hệ không còn che đậy bằng những ngôn từ hoa mỹ ngoại giao như trước được nữa.

 

Trần Bình Nam

 

Oct. 20, 2008

 

[email protected]

 

www.tranbinhnam.com

 

(*) Quan hệ này được Blogger Công Lý & Sự Thật trong nước miêu tả là quan hệ 16 chữ “Láng giềng khốn nạn, Cướp đất toàn diện, Lấn biển lâu dài, Thôn tính tương lai.”

 

(**) ASEM (Asia-Europe Meeting) là hội nghị Âu Á được thành lập năm 1996, hai năm họp một lần để trao đổi về các vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế, giáo dục và văn hóa giữa các nước thành viên.

 

(***) Mậu dịch song phương giữa Việt Nam và Trung quốc: $32 triệu năm 1991 lên 7.2 tỉ năm 2004 và 15 tỉ năm 2007. Dự trù lên dến 20 -25 tỉ năm 2010.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.