<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
... Hoa Kỳ và Âu châu co cụm thì VN sẽ xuất khẩu ít hơn nữa, bị nhập siêu nặng hơn nữa...
Kế hoạch cứu nguy tài chính được Hoa Kỳ ban hành Thứ Sáu mùng ba vừa qua đã không kịp ngăn được suy trầm kinh tế Mỹ. Trong hoàn cảnh đó, kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng ra sao" Diễn đàn Kinh tế đài RFA kỳ này sẽ tìm hiểu về viễn ảnh đó qua cuộc trao đổi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây hầu quý thính giả.
Hỏi: Xin kính chào ông Nghĩa. Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây họa cho kinh tế Hoa Kỳ và có thể kéo dài những khó khăn hiện tại. Đấy là lời cảnh báo trưa Thứ Ba mùng bảy của Chủ tịch hệ thống Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ là ông Ben Bernanke. Trong hoàn cảnh đó, xin đề nghị là chương trình kỳ này tìm hiểu xem kinh tế toàn cầu bị hiệu ứng thế nào. Ông nghĩ sao"
- Thưa chúng ta có ba loại vấn đề chồng chéo lên nhau. Trước hết là khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã gây ra nạn cạn kiệt tín dụng vào thời điểm bất lợi nhất là hoàn cảnh kinh tế bấp bênh của Hoa Kỳ nên nạn suy trầm kinh tế có thể xảy ra. Suy trầm có thể sẽ kéo dài nếu kế hoạch cấp cứu tài chính được ban hành hôm Thứ Sáu mùng ba của tuần trước không sớm có tác dụng. Đấy là vấn đề tạm gọi là của Mỹ. Thứ hai, các khối kinh tế lớn còn lại cũng có nhiều vấn đề nội tại về tài chính và kinh tế nên ta sẽ bị hiện tượng cộng hưởng, là khuếch đại tai họa như một vòng xoáy đi xuống. Và thứ ba, hiệu ứng Hoa Kỳ trong bối cảnh suy trầm toàn cầu sẽ tác động vào mỗi nơi một khác, là điều có lẽ mình cũng cần phân tích khi nghĩ tới Việt Nam.
Hỏi: Như vậy, ta bắt đầu bằng vấn đề của Hoa Kỳ. Nền kinh tế này bắt đầu hay đang bị suy trầm phải không"
- Có lẽ như vậy thưa ông. Theo định nghĩa, suy trầm xảy ra khi đà tăng trưởng sản xuất sút giảm liên tục trong hai quý, tức là trong sáu tháng liền. Nặng hơn thì có nạn suy thoái, hay depression, là khi sản xuất không tăng dù ít đi mà còn giảm liên tục, và nếu suy thoái lan rộng qua nhiều lãnh vực thì mới gọi là khủng hoảng. Vì không chịu khó phân biệt ba trình độ nguy ngập khác nhau mà cứ dùng chung một chữ là "khủng hoảng", người ta có thể gieo họa vì gây hốt hoảng tâm lý.
- Cho đến tháng 10 này, kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng liên tục kể từ đầu năm 2002, dù không cao thì vẫn có tăng trưởng. Thông thường, sau sáu năm tăng trưởng như vậy, thể nào kinh tế cũng sẽ có sự điều chỉnh của chu kỳ kinh doanh, là nạn suy trầm, bình quân thì trong khoảng gần một năm. Vì vậy, vào thời điểm bản lề mà người ta đang sợ suy trầm, vụ khủng hoảng tài chính lại bùng nổ, nên kinh tế Mỹ bị trôi vào nạn suy trầm. Nặng hay nhẹ và lâu hay mau và có thành suy thoái không thì ta chưa biết được, và lời cảnh báo của người am hiểu là Thống đốc Ben Bernanke phải được xem là một thông tin xác đáng nhất về viễn ảnh trước mắt. Khi ông ta hàm ý rằng Hoa Kỳ có thể sẽ phải hạ lãi suất ngắn hạn để đối phó thì thị trường chứng khoán Mỹ lập tức sụt giá mạnh vì rút kết luận rất bi quan về tương lai trước mắt.
Hỏi: Người ta còn có cách dự đoán nào không, thay vì phải chờ đợi thống kê kinh tế của từng quý, ba tháng mới có một lần, về những gì đã xảy ra trước đó"
- Thưa có rất nhiều. Thí dụ như Thứ Năm tuần trước có thống kê về số hàng bền, loại hàng hóa có đời sống kinh tế kéo dài trên ba năm, vì số hoá đơn đặt hàng bền đã giảm nên ai cũng có thể kết luận là tình hình sẽ đen tối hơn. Qua Thứ Sáu, lại có thống kê về nhân dụng, với số người bị mất việc tăng mạnh hơn mọi dự đoán. Hai yếu tố ấy mới khiến cổ phiếu sụt giá mạnh hôm Thứ Sáu, dù Hạ viện Mỹ đã chấp nhận kế hoạch cứu nguy vừa bị bác hôm Thứ Hai đầu tuần.
- Ngoài ra, ta cũng có thể theo dõi chỉ số Dow Jones của doanh nghiệp vận chuyển, gọi là Dow Jones Transportation Average hay DJTA, nó tổng hợp kết quả kinh doanh của hai chục công ty vận chuyển hàng hoá và hành khách. So với đỉnh cao vào ngày năm tháng Sáu thì đã sụt hơn 30%, từ 5.500 điểm nay tuột dưới 3.900 điểm. Khi sụt quá 20% thì đầy là dấu hiệu trào lưu "thăng" đã chuyển thành "giáng", và là cảnh báo rằng lượng hàng hoá vận chuyển sẽ ít đi, tức là sản xuất sẽ giảm trong tương lai. Chưa kể là cổ phiếu sụt giá đồng loạt đã gây ra "hiệu ứng phồn thịnh ngược" là khi ta thấy bị nghèo đi thì càng tiết giảm chi tiêu và càng dễ đưa tới suy trầm.
Hỏi: Bây giờ, mình qua phần hai là vấn đề nội tại của các khối kinh tế khác khiến hiệu ứng Hoa Kỳ có thể gây tác dụng cộng hưởng như ông nói.
- Ách tắc chung của các đầu máy kinh tế lớn trên thế giới là nạn cạn kiệt tín dụng. Tại Âu châu, tình trạng này còn nguy ngập hơn tại Mỹ vì nhiều yếu kém trong hệ thống ngân hàng Âu châu. Đã thế, khối kinh tế của 27 quốc gia, trong đó có khối Euro của 15 nước dùng chung đồng Euro, lại không thể ứng phó linh động và mau lẹ như Ngân hàng Trung ương hay bộ Ngân khố Hoa Kỳ vì cần sự đồng ý của tất cả các quốc gia hội viên. Thất bại sau "thượng đỉnh" bốn nước Anh, Đức, Pháp, Ý vào Thứ Bảy tuần trước khiến Âu châu không thể có đối sách thống nhất mà xứ nào đành cứu lấy ngân hàng của xứ đó. Đã thế, kinh tế Âu châu lại đang bị suy trầm trong thực tế cho nên tình hình sẽ còn bi đát hơn. Dù Ngân hàng Trung ương có thể phải hạ lãi suất, cục diện Âu châu vẫn có nhiều bất lợi, có thể còn nặng hơn Mỹ. Đó là lý do vì sao đồng Euro sụt giá mạnh so với tiền Mỹ, dù Mỹ đang bị khủng hoảng tài chính.
Hỏi: Thế còn trường hợp Nhật Bản, tình hình có khả quan hơn chăng, khi các ngân hàng Nhật đã tung tiền cấp cứu các ngân hàng bị nạn tại Hoa Kỳ và đồng Yen lên giá"
- Nhật Bản có hoàn cảnh khác do chinh sách duy trì lãi suất cực thấp rất lâu để kích cầu. Hậu quả là doanh nghiệp Nhật đem đồng Yen rất rẻ đi đầu tư nơi khác để có lời cao hơn. Bây giờ khi nơi khác bị động, họ phải bán tháo và mua lại tiền Nhật khiến đồng Yen lên giá một cách bất thường. Nhưng, hậu quả là hàng Nhật sẽ khó cạnh tranh hơn và hệ thống ngân hàng Nhật sẽ bị rung chuyển còn nặng hơn vụ khủng hoảng vì tín dụng thứ cấp tại Hoa Kỳ.
- Nói chung thì cả ba đầu máy kinh tế mạnh nhất thế giới là Mỹ, Nhật, Âu đều đang bị nạn cùng lúc nên không ai cứu được ai và kinh tế toàn cầu sẽ bị suy trầm nặng. Chúng ta không có thời giờ phân tích tình hình Trung Quốc, là một vấn đề nguy ngập khác, vì mình còn phải nhìn qua hậu quả đối với Việt Nam.
Hỏi: Thưa đúng như vậy, và dù truyền thông tại Việt Nam có thể tránh nói nhiều đến khủng hoảng tại Mỹ để khỏi gây hốt hoảng, nhưng người ta cho rằng lãnh đạo xứ này rất quan tâm đến nguy cơ ấy. Cho nên Việt Nam sẽ bị hiệu ứng như thế nào"
- Kinh tế Việt Nam quá lệ thuộc vào ngoại thương và khả năng xuất khẩu. Khi toàn cầu bị suy trầm và hai thị trường lớn nhất của hàng hoá Việt Nam là Hoa Kỳ và Âu châu bị co cụm thì Việt Nam sẽ xuất khẩu ít hơn nữa, bị nhập siêu nặng hơn nữa từ cuối năm nay qua hết năm sau.
- Thứ hai, Việt Nam trông cậy vào đầu tư nước ngoài và lượng kiều hối từ ngoài trút vào, lượng tiền đó sẽ khan hiếm hơn và sản xuất của Việt Nam sẽ sút giảm mạnh. Đà tăng trưởng kinh tế có thể sụt dưới 6%, thậm chí chỉ còn chừng 5% như Ngân hàng Phát triển Á châu đã cảnh báo.
- Kết hợp hai vấn đề ấy thì Việt Nam có thể bị khủng hoảng về ngoại hối vì đồng bạc sẽ mất giá mạnh khi Mỹ kim tăng giá và sẽ còn tăng nữa trong khi mọi người cứ đoán lầm rằng vì kinh tế Mỹ sa sút đô la Mỹ sẽ sụt giá. Hôm nay Thứ Ba, một số nguồn tin ngân hàng quốc tế cho biết là Việt Nam vừa kín đáo chuyển tài sản ngoại tệ từ các nơi khác về hai thị trường Singapore và Hong Kong. Đấy cũng là một chỉ dấu rất đáng chú ý.
Hỏi: Nghĩa là Việt Nam cũng có thể bị ảnh hưởng trực tiếp từ vụ khủng hoảng tài chính đang hoành hành tại Mỹ hay sao"
- Thưa rằng không vì hệ thống tài chính và ngân hàng của Việt Nam còn thô sơ, chưa hội nhập thật sâu vào hệ thống ngân hàng ngoại quốc, từ Đông Á tới Hoa Kỳ. Nhưng ảnh hưởng gián tiếp thì tất nhiên là có, qua trung gian ta gọi là "chuyển lực" của các nước Đông Á, từ Đông Bắc xuống Đông Nam Á. Nói chung, khủng hoảng tại Mỹ khiến các nước này đều bị khó khăn và có khi bị khủng hoảng về ngoại hối. Việc Chính quyền Nam Hàn phải trấn an dư luận rằng xứ này còn dự trữ ngoại tệ đến 240 tỷ Mỹ kim là một tín hiệu rất đáng ngại. Mà Đông Á vốn cũng là các thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam sau thị trường Trung Quốc.
- Trong khi ấy, mình không quên nguy cơ lạm phát vẫn còn rất cao, dù có giảm đôi chút trong tháng Chín thì vẫn là gần 28%. Vì vậy, lãi suất cho vay của Việt Nam chưa thể giảm và hàng loạt doanh nghiệp lẫn ngân hàng có thể vỡ nợ trong mấy tháng tới. Nhiều ngân hàng gặp khó khăn đã muốn giảm lãi suất ký thác phải trả cho trương chủ, và nhiều ngân hàng khác thật ra vẫn còn thanh khoản mà hết dám cho vay, tức là cũng gây ra hiện tượng cạn kiệt tín dụng vì tâm lý bất an như ta đang thấy tại Mỹ. Nếu Việt Nam hạ lãi suất để kích cầu hầu tránh nạn suy trầm thì lại dễ gây ra lạm phát. Bài toán của Việt Nam vì vậy rất khó giải quyết và mọi người mà án binh bất động để chờ bão nổi thì trận bão càng dễ xảy ra.
Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, những hoạn nạn này có thể kéo dài bao lâu và liệu Hoa Kỳ có thể bị một trận Tổng khủng hoảng như thời 1930 hay không"
- Kéo dài lâu hay chậm thì còn tùy vào tâm lý của thị trường và của người Mỹ, trong tình trạng hiện nay thì suy trầm sẽ khó chấm dứt trong vòng chín tháng như bình quân của các đợt suy trầm trước. Tuy nhiên, bị tổng khủng hoảng như thời 1929-1933 thì có lẽ là không. Thời nay, kinh tế Mỹ có cơ chế sản xuất đa diện hơn và cơ chế ứng phó tinh vi và linh động hơn tám chục năm trước. Thời đó, số tín dung gia cư bị mất và số nhà bị sai áp chiếm 50% tổng số, cao gấp 10 thời nay. Cũng xin nói thêm rằng tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đang là 6,1% và dù có lên tới 7% vào năm tới thì vẫn chưa bằng tỷ lệ trên 25% vào thời Tổng khủng hoảng. Chỉ mong là rút tỉa bài học sai lầm trước, Mỹ đừng tăng thuế như thời Tổng thống Roosevelt khiến hậu quả khủng hoảng kéo dài hơn cho tới trước Thế chiến II, tới năm 1938-1939. Tôi thiển nghĩ rằng nước Mỹ bị ngã, nhưng sẽ đứng dậy được, chỉ mong là các nước khác cũng sẽ đứng dậy chứ không vì khủng hoảng kinh tế mà gặp khủng hoảng chính trị và sụp đổ.