Hôm nay,  

Việt Nam: Lạc Quan Tếu Để Mị Dân? Nhà Nước Quay Dân Như Con Dế

25/07/200800:00:00(Xem: 9623)
Hoa Thịnh Đốn.- Đảng Cộng sản Việt Nam  đang thi đua diễn kịch “quay dân như con dế” để  đánh vật với nguy cơ kinh tế tụt hậu và nạn hút máu ngân sách của tập đoàn  quan tham.

Màn kịch  đầu tiên  diễn ra ở sân khấu  xăng dầu ngày 21-7 (2008) , khi Nhà nước bất ngờ   tăng giá xăng từ 14.500 đồng/lít lên 19.000 đồng/lít, dầu diesel tăng từ 13.950 đồng/lít lên 15.950 đồng/lít  mà không cần  thông tin  dự báo trước để chuẩn bị tinh thần cho dân.

 Việc này xẩy ra đúng vào thời điểm  cơn sốt vật giá leo thang đồng loạt và nạn lạm phát đang hướng tới mức đe dọa 30 phần trăm khiến cuộc sống người dân đã khốn đốn càng lúng túng hơn.

 Theo báo Nhân Dân, tại cuộc họp báo thông báo điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu sáng  ngày 22-7 (08) , Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh cho biết, việc tăng giá dầu lần này nhằm giảm bù lỗ của Nhà nước.

Ninh cho biết, nếu  nhà nước cứ giữ giá như vừa qua thì tính đến cuối năm con số bù lỗ lên đến chừng 70 ngàn tỷ đồng; bên cạnh đó chính phủ phải thất thu khỏang 25 ngàn tỷ đồng tiền thuế do giữ mức thuế nhập khẩu xăng dầu bằng 0%.

Ai cũng biết Việt Nam không thể sống mãi với gía dầu tăng nhanh trên thị trường quốc tế bằng cách bù gía để kìm hãm lạm phát tăng nhanh trong 6 tháng đấu năm nay (2008), nhưng nhà nước lại không màng đến sức chịu đựng đang cạn kiệt của đại đa số dân nghèo để giáng thêm xuống đầu họ cú đấm như búa bổ tăng giá món hàng bắt buộc phải có để kiếm sống như xăng dầu là hành động vô trách nhiệm.
Vì vậy ai cũng bị bất ngờ, bàng hòang và bất bình.

Chuyên gia Kinh tế hàng đầu của Việt Nam, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh phản ứng với tờ Thời Báo Kinh tế trong số báo ngày 23-7 (08) : “  Không chỉ cá nhân tôi mà có khá nhiều chuyên gia kinh tế khác cũng khá bất ngờ về mức tăng giá tới 30% đối với xăng dầu. Đây là một mức tăng cao so với khả năng chi trả và mặt bằng thu nhập của đại bộ phận người dân hiện nay.

Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là việc tăng giá tới 30% này nhất định sẽ tác động đến chỉ số giá tiêu dùng trong thời gian tới, mà theo dự đoán của tôi sẽ khiến cho CPI (consumer price index)  tăng thêm khoảng 1,5%, chứ không chỉ là 0,6 hay 0,7% như một số bộ, ngành dự báo.

Cũng chính từ việc tăng giá xăng dầu này nên chắc chắn trong thời gian tới, khá nhiều ngành như: vận tải, dệt may, đánh bắt thủy sản… sẽ là “nạn nhân” của đợt tăng giá này.

Những nhóm ngành này trong thời gian tới sẽ phải nỗ lực rất nhiều để có thể đương đầu với chi phí tăng cao. Nhưng tôi không tin là một mình họ có thể vượt qua được những khó khăn và có thể tự bù đắp được do tác động của giá xăng dầu tăng cao.”

Ông Doanh cảnh cáo : “ Theo tôi, Chính phủ cũng như chính quyền địa phương nên có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn này. Tôi cho rằng, ảnh hưởng của tăng giá xăng lần này sẽ là không nhỏ nên Chính phủ cần phải xem xét một cách thận trọng, thấu đáo, không thể để doanh nghiệp tự gánh vác một mình được, bởi các nước khác họ đều có sự hỗ trợ hết.”

Còn nếu chỉ vì tăng giá xăng mà đánh bắt thủy sản phải đình lại, dệt may không xuất khẩu được… thì đây quả là một điều hết sức đáng tiếc.

Phê bình về biện pháp bất ngờ của nhà nước ngày 21-7, Tiến sỹ Doanh nói : “ Theo tôi, tốt nhất là phải có một lộ trình, có nguyên tắc, tránh làm theo kiểu giật cục.  Theo nguyên tắc thì chính sách phải tạo ra tính dự báo được tình hình để cho người dân có sự chuẩn bị, điều chỉnh. Lẽ ra, nên có sự thông báo trước cho người dân theo tinh thần là: nếu xăng dầu thế giới tăng đến mức cụ thể nào đấy thì giá trong nước sẽ điều chỉnh tăng ở mức cụ thể tương ứng.

Đáng tiếc là đợt tăng giá hôm 21/7 là chưa làm được điều này, nên đã gây nên khá nhiều những ý kiến phản hồi từ nhân dân, doanh nghiệp.”

Thời Báo Kinh tế hỏi : “Chính phủ khẳng định, tăng giá xăng dầu là để giảm gánh nặng bù lỗ. Nhưng nếu so sánh mục tiêu này với một cơn “bão giá” mới thì việc nào nên được cân nhắc hơn, thưa ông"”

Tiến sỹ Doanh : “ Khi quyết định tăng giá xăng dầu thì chắc chắn Chính phủ không cho rằng sẽ có sự đảo lộn của nền kinh tế. Tuy nhiên, tôi nghĩ có một điều mà chúng ta cần phải chuẩn bị tư tưởng trước, đó là sẽ có một đợt tăng giá mới.”

CHỦ QUAN HAY CẬN THỊ "

Trong khi Ông Doanh dự báo chỉ số giá  tiêu dùng (CPI)  có khả năng leo lên 1,5 %  sau đợt tăng gía dầu thì Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh không nghĩ như thế .

Ninh nói : “ Chúng tôi tính toán tác động trực tiếp của việc tăng giá xăng dầu lên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là khoảng 0,5%-0,7%. Ảnh hưởng trực tiếp của tăng giá xăng dầu là không lớn nhưng những tác động dây chuyền, tác động gián tiếp qua nhiều vòng sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, Chính phủ cũng đã có văn bản gửi các ngành sản xuất kinh doanh cần kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu vào, thực hiện tiết kiệm để ổn định giá cả.”

Ninh cũng nói với Báo chí tại Hà NộI : “  Xăng dầu là mặt hàng có tác động nhiều đến sản xuất kinh doanh của DN (doanh nghiệp). Sau đợt tăng giá xăng dầu này sẽ tác động đến giá cả của nhiều mặt hàng. Tuy nhiên, nếu mức tác động vẫn ở trong tầm DN kiểm soát được thì vẫn cố gắng chấp nhận giảm lãi để không điều chỉnh giá. Nếu bất khả kháng buộc phải tăng giá thì phải đăng ký để thực hiện kiểm soát. Hạn chế tình trạng điều chỉnh giá tràn lan, các cơ quan nhà nước sẽ thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát cơ cấu giá cả các mặt hàng, chống đầu cơ tăng giá, thực hiện niêm yết giá công khai... không để tăng giá bất hợp lý.”

Ai cũng hy vọng như thế và nhà nước đã cho dân biết các mặt hàng điện, nước và than vẫn giữ nguyên gía cho đến cuối tháng 12/2008.

Nhưng người dân không chỉ sống bằng điện, nước và than mà còn cần nhiều mặt hàng thiết dụng khác như gạo, thịt, rau, cá, thuốc men, phương tiện di chuyển, giấy, sách, bút mực và quần áo mặc hàng ngày v.v… nên rất khó mà bảo giá tiêu dùng sẽ không vượt qúa 1% như dự báo của nhà nước.

Bằng chứng của sự đột biến thị trường tiền tệ sau tăng giá xăng dầu đã xẩy ra đối với  đồng Mỹ kim. Một bản tin trong Báo Quân đội Nhân Dân ngày 21-7 (08) viết : “ Ngay sau khi Bộ Tài chính công bố tăng giá bán lẻ xăng dầu, trên thị trường “chợ đen”, một số đối tượng đầu cơ đã lợi dụng yếu tố tâm lý đẩy giá bán đô-la Mỹ (USD) lên cao để trục lợi. Đến 16 giờ 30 phút chiều 21-7 giá USD tại một số cửa hàng trao đổi ngoại tệ tại Hà Nội đã tăng mạnh lên 17.500 đồng/USD (giá bán ra) và 17.200 đồng/USD (giá mua vào). Như vậy, giá mua USD tại các đại lý thu đổi ngoại tệ tại Hà Nội đã tăng khoảng 700 đồng so với đầu giờ chiều ngày 21-7 và tăng 800 đồng so với đầu giờ sáng cùng ngày.

Trước “cơn sốt” do tâm lý này, chiều qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát đi thông tin khẳng định hệ thống ngân hàng có đủ nguồn ngoại tệ để đáp ứng mọi nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế và khuyến cáo người dân không nên vì yếu tố tâm lý mà đổ xô đi mua ngoại tệ, tránh thiệt hại không đáng có. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vào giữa tháng 6-2008, tỷ giá đô-la Mỹ trên thị trường tăng mạnh, do yếu tố đầu cơ và tâm lý. Với các biện pháp can thiệp đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước, những ngày gần đây, thị trường đã ổn định trở lại, tỷ giá mua bán đô-la Mỹ xoay quanh mức từ 16.600 đến 16.700 đồng/USD. Mức tỷ giá này phản ánh đúng tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường.”

Tình trạng buôn bán chợ đen đồng Mỹ kim là một báo hiệu không mấy tốt cho thị trường tiền tệ bấp bênh của Việt Nam. Nó có nguy cơ tạo ra tình trạng xấu như cảnh báo của  Tiến sỹ Nguyễn Đại Lai, một chuyên viên tài chính, trên Thời báo Kinh tế  ngày 18/07/2008.

Ông Lai viết : “ Năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho dù đã được Ngân hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là 12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm, giá trị đồng USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do.

Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng giá đột ngột trở lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200đ/USD rồi từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh lên trên 19.500đ/USD, nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về trạng thái bình thường xung quanh 16.800đ/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn.

Nội hàm của sự bất ổn này nếu loại trừ những nhân tố khách quan tác động từ nước ngoài, thì có 3 nguyên nhân chính từ phía chính sách quản lý ngoại hối còn lỏng lẻo.

Thứ nhất, do tình trạng Đôla hoá trên thị trường tài chính Việt Nam còn khá phổ biến trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín dụng qua ngân hàng thương mại... đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi xuất hiện những biến động về ngoại tệ.

Thứ hai, nhập siêu 6 tháng đầu năm 2008 đã lên tới trên 14 tỷ USD (chủ yếu rơi vào 4 tháng đầu năm), cao kỷ lục từ trước đến nay.

Thứ ba, không ngoại trừ có một lượng nội tệ nằm tại các quĩ đầu tư và tại các quĩ tiền mặt của các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam đã mua vào khá nhiều Đôla để chuyển đổi tiền tệ, tạo tâm lý bất ổn để đầu cơ tiền tệ ngay trên thị trường tiền tệ Việt Nam cùng với những hành vi vi phạm của một số đại lý thu đổi ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại đã tự ý găm ngoại tệ để đầu cơ không bán lại cho ngân hàng theo cam kết...

Ngoài ra còn một số lý do gián tiếp khác là các tín hiệu phát ra từ nền kinh tế đầu tầu thế giới là Mỹ rất biến động.”

LẠC QUAN TẾU 

Tuy vậy, Báo Điện tử của Trung ương đảng CSVN ngày 18/7/2008  vẫn  đăng bài  viết của Nguyên Lan mang đầy tính lạc quan về tình hình kinh tế.  

Lan viết : “  Trong những tháng đầu năm 2008, bên cạnh việc tăng trưởng về kinh tế, lạm phát vẫn có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên điều đó không đồng nghĩa với việc những tháng cuối năm 2008 lạm phát vẫn tăng mạnh… Theo một số nhà chuyên môn, nền kinh tế nước ta trong những tháng đầu năm 2008 đã để xảy ra lạm phát cao, do những nguyên nhân nhập siêu quá mức, làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn tới khó khăn về ngoại tệ và nghiêng lệch cán cân thanh toán, hệ thống ngân hàng mất thăng bằng, sụt giảm thị trường bất động sản, các doanh nghiệp thiếu sức cạnh tranh và đầu tư dàn trải, không hiệu quả…”

“Cũng theo các nhà chuyên môn, vì những lý do trên, trong 6 tháng cuối năm 2008, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi nguy cơ xảy ra khủng hoảng, nhất là trong các lĩnh vực: Khủng hoảng tiền tệ do phá giá đồng tiền; khủng hoảng cán cân thanh toán; khủng hoảng tại hệ thống ngân hàng…

Tuy nhiên, đối với một số nhà chuyên môn có kinh nghiệm, mặc dù có những nguy cơ trên, nền kinh tế của Việt nam trong những tháng cuối năm 2008 vẫn có những tín hiệu rất khả quan, do nhiều yếu tố chính như: Hệ thống ngân hàng trong nước về cơ bản vẫn đang đứng vững; cạnh đó các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam, kể cả cả nợ dài hạn và ngắn hạn, vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát; xuất khẩu và thu hút FDI  (Foreign Direct Invesment) của Việt Nam hiện tại vẫn tăng mạnh; còn nữa: nền kinh tế Việt Nam dựa nhiều vào nông nghiệp; mà lĩnh vực nông nghiệp lại chính là lĩnh vực thường ít chịu sức ép nhất khi xảy ra suy thoái kinh tế. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai có hiệu quả chính sách kiềm chế lạm phát, bao gồm nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp thắt chặt tiền tệ và thắt chặt tài khóa. Những biện pháp kiềm chế lạm phát này đang tỏ ra có hiệu qủa tốt và đang tiếp tục phát huy hiệu quả trong thời gian tới…”

Thái độ lạc quan hồ hởi này này được phát  ra cùng thời với  lời cảnh báo mới của Ngân hàng Phát triển châu Á (Asian Development Bank) về  nguy cơ “lùi lại” của nền kinh tế Việt Nam.

Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 23-7 (08) viết : “  Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo năm nay tổng sản lượng quốc nội (GDP) của Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm lại còn 6,5%, nhưng năm tới sẽ tăng lên 6,8% so với tốc độ 8,5% của năm ngoái và 7,3%/năm trong thập kỷ trước.

Ngân hàng này cũng dự báo lạm phát năm 2008 của Việt Nam sẽ tăng lên 19,4%, sau đó sẽ hạ xuống 10,2% vào năm tới so với 8,3% trong năm 2007.

Trong báo cáo "Giám sát Kinh tế châu Á" được công bố định kỳ 6 tháng một lần, ADB lưu ý Việt Nam cần phải hành động dứt khoát để tránh cuộc suy thoái kinh tế như đã từng xảy ra ở Thái Lan, nơi khởi nguồn cho cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1997-1998.

Trong bối cảnh lạm phát hàng năm ở Việt Nam đang hướng tới mức 30% và thâm hụt thương mại ngày càng phình to, ADB nói rằng nỗi lo ngày càng gia tăng về khả năng nền kinh tế này có thể đối mặt với những khó khăn rất lớn.

Chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng của Việt Nam đã giúp lý giải tình trạng lạm phát và thâm hụt thương mại trong nước gia tăng, dẫn tới khó khăn kinh tế tương tự như của Thái Lan trong thập niên 1990, cho dù các nền tảng của Việt Nam hiện nay có vẻ vững chắc hơn.

Nhưng trong khi có những tín hiệu đáng khích lệ cho thấy các chính sách thắt chặt của Chính phủ Việt Nam bắt đầu phát huy tác dụng, kinh nghiệm của Thái Lan cũng cho thấy nếu những phản ứng trong chính sách yếu kém hoặc không thích hợp sẽ rất dễ dẫn tới khủng hoảng.

ADB hối thúc Chính phủ Việt Nam tiếp tục giám sát chặt chẽ tình hình, có hành động dứt khoát và nhanh chóng để ngăn chặn không cho nền kinh tế trở nên tồi tệ hơn.

Trong tháng 6, lạm phát ở Việt Nam đã tăng 26,8% so với cùng kỳ năm ngoái và là một trong những nước có lạm phát cao nhất ở châu Á do chịu tác động mạnh của sự lên giá dầu mỏ và lương thực. Trong khi đó, thâm hụt mậu dịch trong 6 tháng đầu năm nay của Việt Nam cũng tăng gấp 3 lần, lên 16,9 tỷ USD.”

Cùng ngày này,  Bộ Kế hoạch và Đầu tư  của Việt Nam loan báo  kết quả kiểm tra việc thực hiện sắp xếp, bố trí lại kế hoạch đầu tư theo chỉ đạo của  Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng, tại 15 tập đoàn kinh tế, tổng công ty, 36 bộ, ngành, 64 địa phương để kiểm soát lạm phát.

Bản tin của Bộ này viết : “ Kết quả kiểm tra cho thấy đã có tổng cộng 2.971 dự án đầu tư công được cắt giảm, giãn tiến độ hoặc hoãn khởi công với tổng số vốn được tiết giảm tương đương 35.358 tỷ đồng.”

Vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, ông Bùi Hà, cho biết thực tế tổng cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế cũng sẽ không đổi do số vốn hơn 35.000 tỷ đồng được tiết giảm qua gần 3.000 dự án sẽ được sử dụng để bố trí vốn cho các dự án cấp bách hơn, hiệu quả hơn và những dự án chuyển tiếp cho năm sau.

Ông Hà cho biết thêm, công tác kiểm tra cắt giảm đầu tư công hiện mới được thực hiện tại 15 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với các cơ quan khác tiếp tục triển khai kiểm tra tại 55 doanh nghiệp khác.”

Tuy nhiên Báo cáo của Hà cũng chỉ là hạt muối bỏ biển  so với số tiền thua lỗ của các công ty Nhà nước.

Báo Đại Đòan Kết ngày 11-7 (08) viết : “Vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ngoài ngành với tổng số tiền lên tới 7 ngàn tỷ đồng; Hàng loạt những tập đoàn, Tổng Công Ty 90-91 khổng lồ đang kinh doanh thua lỗ nặng nề hoặc có lãi không bằng một hợp tác xã tư nhân và việc cắt giảm các dự án đầu tư theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ đang là những vấn đề dư luận hết sức quan tâm.”

Tờ Báo viết tiếp : “Sáng qua (10-7) Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp đã tổ chức buổi họp báo để thông báo tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước trong 6 tháng đầu năm 2008. …Tại buổi họp báo, hai vấn đề được đặc biệt quan tâm đó là tình hình đầu tư vốn và hoạt động huy động vốn cho đầu tư của các Tập đoàn và TCT. Mặc dù báo cáo của Ban chỉ đạo ghi nhận việc các tập đoàn, TCT hoạt động theo mô hình công ty mẹ, con là hướng đi đúng trong tiến trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp. Nhưng không thể phủ nhận một thực tế, thời gian qua cũng có một số tập đoàn, TCT đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bất động sản với số tiền lên tới hơn 7000 tỷ đồng…”

Việc này có nghĩa các Công ty Nhà nước đã không dùng tiền vay của Nhà nước vào việc kinh doanh dài hạn mà đem tiền đi đầu tư kiếm lời hay mua, bán  nhà đất.

 Báo Đại Đòan Kết viết tiếp :“…Theo báo cáo hàng loạt những tập đoàn, TCT lỗ với số lượng lớn như: TCT xăng dầu lỗ 900 tỷ đồng, TCT Xây dựng miền Trung lỗ 88 tỷ đồng, TCT Hàng không lỗ 83,5 tỷ đồng, TCT Chè lỗ 4,8 tỷ đồng. ..và nhiều TCT tuy không lỗ nhưng lợi nhuận đạt thấp như TCT Thủy sản Hạ Long 600 triệu đồng, TCT Thiết bị y tế đạt 700 triệu đồng... Về tình trạng kinh doanh thua lỗ của các Tập đoàn, TCT, Thứ trưởng Trần Xuân Hà cho biết thêm: Theo thống kê năm 2007 có 97% Tập đoàn, TCT kinh doanh có lãi, có nghĩa là chỉ 3% số lượng Tập đoàn, TCT lỗ. Năm 2008 này,vẫn có thể có một số DN thua lỗ.”

Có điều ngạc nhiên là dù thua lỗ hay không lãi nhiều nhưng Nhà nước vẫn lấy tiền đóng thuế của dân hay đồng tiền do mồ hôi nước mắt lao động của dân làm ra để bù đắp để cho cán bộ, đảng viên  hưởng thụ.

Như vậy, tại sao đảng và nhà nước không xóa sổ các Công ty hay Doanh nghiệp thua lỗ để chận đứng lạm phát cứu nguy  kinh tế cho dân bớt khổ, hay  là  sợ chặt cây thì cả rừng  sẽ đổ rồi Đảng sẻ ngả theo nên  Tổng Bí thư đảng Nông Đức Mạnh không dám ra tay " -/-

(07/08)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.