Hôm nay,  

Xem "Lá Thư Từ Chiến Trường" Của Ban Nhạc Asia, Nghĩ Về Sự Bức Tử Của Một Quân Đội Anh Hùng

09/04/200800:00:00(Xem: 15567)

Vừa bước vào trong rạp hát Convention Center của Long Beach, khán giả có cảm giác như  bị choáng ngợp bởi một khung cảnh hoàn toàn khác lạ với thế giới bên ngoài. Nhất là những người lính thuộc chế độ Cộng Hòa, phục vụ tại các văn phòng chuyên môn hay các chiến sĩ đã từng xông pha trong lửa đạn, Bộ Binh, các đơn vị chuyên môn, Thủy quân Lục chiến, Biệt Động Quân, Nhẩy Dù, Hải Quân hay Không Quân, hay những chiến sĩ Địa Phương Quân .. đều cảm thấy như đã trở về ngày tháng cũ. Các vọng gác, kẽm gai, hàng rào bao cát, xe díp và ánh đèn pha.. đang hiện diện ràng ràng rỡ rỡ, gợi nhớ bao nhiêu kỷ niệm, mồ hôi và máu. Hình ảnh bạn bè quanh quẩn đâu đây. Doanh trại biên phòng hay hậu cứ. Tiếng thanh nhọn của M- 16 lẫn với tiếng đại liên M- 60. Hỏa châu bùng lên cho những sợi lân tinh rơi xuống. Bóng dáng những người lính gác giặc vững tay súng cho một đất nước bình yên, lại bàng hoàng trong tim người dân miền Nam, những tâm hồn bình dị, gửi gấm trọn niềm tin vào những chiến sĩ Cộng Hòa. Ở đâu có lính, ở đó có dân. Lính đi đâu, dân theo đến đó. Hình ảnh những người gác súng một bên để đỡ cho người mẹ già ngồi xuống nghỉ chân, và băng bó cho đứa em nhỏ máu lệ chan hòa, lại sáng bừng lên trong chương trình ca nhạc chủ đề "Lá Thư Từ chiến Trường" của Trung Tâm Asia.

Đã bao nhiêu năm rồi, người lính cũ không có dịp cầm lại cây súng thân yêu ngày xưa, cây súng có nạp đạn thật, nằm lăn dưới gốc cây hay trên bờ đá lổn nhổn, cởi cái nón sắt ra, gác đầu lên đó, tìm sự bình yên trong giây phút rồi lại lên đường, hành quân tiễu giặc. Đã bao nhiêu năm rồi, người lính cũ chỉ còn biết chiến đấu cô đơn, không quân phục, không súng đạn, không hậu cứ, không tiền tuyến. Cuộc chiến bây giờ không có tiếng nổ vang của đạn pháo, mà chỉ có những tiếng gọi thiết tha của dân tộc đang bị đàn áp, thống trị bởi một chủ nghĩa độc tài, nhũng loạn, sắt máu, vô nhân và vô đạo.Vì thế, khi nhìn thấy những hình ảnh mà Asia mang lại, khi nghe những bản hùng ca cùng các khúc hát quân dân cá nước, khán giả lại bùi ngùi rơi lệ. Các tiếng hát một thời của lính, các khuôn mặt diễm lệ, thân yêu của những ca sĩ đã từng lăn xuống chiến hào với lính, đã từng cất tiếng lên, vượt từ giao thông hào này đến đồn canh kia, đem lại hơi ấm cho người lính trận đang ngồi gác một mình, giờ đây lại vang lên, ngọt ngào như thuở nào.

Nhưng, trên hết tất cả các lời ca ấy, hình bóng ấy, điều đáng viết ở đây, là những uất hận của những người lính bị chính trị bức tử. Nhìn vào những nghệ sĩ mặc áo lính kia, biết họ chỉ là nghệ sĩ, nhưng họ chính là hình ảnh của các người lính hiên ngang của một quân đội, mà theo lời một danh tướng Hoa Kỳ, chỉ huy Binh Chủng Nhẩy Dù Mỹ, là "quân đội Việt Nam Cộng Hòa là một đội quân anh dũng không thua bất cứ một đạo quân nào trên thế giới". Cũng theo lời ông, họ chính là những chiến sĩ "đánh giặc như Sư Tử". Vậy mà, năm 1975, họ đành phải bỏ quân phục, mang lấy áo tù, hay bộ quần áo dân sự, lưu vong khắp các miền trên thế giới. Tại sao lại đau đớn như vậy"
Có người cho rằng đó là do yêu cầu của quyền lợi Hoa Kỳ. Bỏ một địa bàn kinh tế chỉ có vài chục triệu người để lấy gần một tỉ dân số của Trung Cộng làm thị trường tiêu thụ hàng hóa Hoa Kỳ thì là một điều nên làm cho một cường quốc lúc nào cũng muốn phát triển tối đa. Có người cho rằng vì áp lực của dân chúng Mỹ đã chán nản chiến tranh mà trói tay Tổng Thống. Cũng có thể vì thời gian đó, báo chí thiên tả tràn ngập, trên tờ báo nào cũng có mùi thuốc súng làm dân chúng sợ. Con số 58,000 tử sĩ không phải là con số nhỏ.

Thực tế, với sự  quan sát giới hạn của người viết, đã được huấn luyện tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ (O.C.S. Fort Benning), cuộc chiến Việt Nam chỉ là một trường thí nghiệm vũ khí và tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng như để thử thách và tìm hiểu vũ khí của Trung Cộng và Liên Xô. Người Mỹ chỉ trang bị cho miền Nam những thứ vũ khí cần thiết để tự vệ sau khi các vũ khí tối tân của Trung Cộng và Liên Xô đã muốn đè bẹp miền Nam, mặc dầu những thứ vũ khí ấy, chất đầy trong kho đạn của Mỹ. Chỉ SAU KHI miền Nam bị động  vì một thứ vũ khí nào đó của Cộng Quân, người Mỹ mới thả ra những vũ khí có tính cách khắc chế. Không thấy người Mỹ trang bị cho miền Nam những vũ khí Tối Tân TRƯỚC KHI binh sĩ Cộng Sản được cung cấp những loại ác hiểm.

Năm 1968, khi trận Mậu Thân nổ ra, bộ binh miền Nam còn trang bị súng trường M.1 được xử dụng từ thế chiến trước, bắn phát một, và mỗi lần thay gắp đạn có 8 viên, thì mất thời gian và có nguy cơ bị cơ bẩm dập ngón tay cái. Sĩ quan nào ưu tiên, có thể có Carbin M.1, ít khi có M.2. Tiểu liên Thompson cũng chỉ giới hạn. Đại liên 30 thì lỗi thời, hay kẹt đạn. Trung liên BAR cũng thế, nặng nề, và không phải tiểu đội nào cũng có. Trong khi đó, Cộng Quân đã được Trung Cộng và Liên Xô trang bị bằng tiểu liên AK- 47 cực nhanh, một băng đạn có cả 20 viên, dễ thay và chịu nước, không bị kẹt đạn. Trung liên "nồi" của cộng quân lắp được 71 viên, bắn như điên, không kể thượng liên, súng phòng không, hỏa tiễn... Trước sức mạnh áp đảo về vũ khí cá nhân như thế, Cộng Quân tưởng có thể nuốt sống miền Nam, tuy nhiên, sự thật lại không diễn ra theo như chúng dự tính. Suốt thời gian đầu Tết  Mậu Thân, dù súng chỉ bắn viên một, quân đội anh hùng miền Nam vẫn giữ vững được hầu hết mọi thành trì, chỉ có Huế là tang thương.

Sau khi quân đội miền Nam vất vả chiến đấu hết sức mình bằng cây M.1 lỗi thời, Mỹ mới gửi sang AR-15 hay M16A1  để địch lại với AK-47 của Cộng Quân. Điều cần nói ở đây, là trước thời gian ấy, tại quân trường Mỹ, người viết đã được bắn M-16A2 tưng bừng. Loại súng dành cho cơ bản thao diễn cũng là một thứ vũ khí mạnh, M-14, bắn liên thanh hoặc phát một, kẹp đạn 20 viên, chỉ xài trong quân trường, không thấy phát cho lính miền Nam. Giả sử những năm 1966-67, quân đội miền Nam có tối thiểu M.14 thay vì M.1 thì chắc chắn lịch sử cũng phải tường thuật một cách hoàn toàn khác.


Về đại liên, các sinh viên sĩ quan Mỹ đã được bắn M - 60 nóng cả tay, bắn nằm hay bắn đứng như cao bồi, tựa báng súng vào đùi mà bắn, không nhớ số lượng đạn. Còn miền Nam, mãi đến năm nào mới có M-60" Súng cối cũng thế, loại 60 ly ở Mỹ chỉ dùng như súng cổ tích, sinh viên thích bắn kiểu cao bồi, tức là một tay chĩa nòng súng lên đâu đó, một tay thả quả đạn vào, nghe nổ cái "chóc" vui tai. Súng cối 81 ly cũng là loại xưa với quân đội Mỹ, loại chính mà Sinh viên mỗi người phải bắn một số quả theo tiêu chuẩn là súng cối 4.2., rất chính xác và dễ điều chỉnh. Súng cối 4.2 có thể để dưới đất, hay gắn vào thiết vận xa M.113, bắn dữ dội. Khi ấy, nhiều đơn vị miền Nam vẫn còn dùng súng cối 60 để bảo vệ trận địa"

Về hỏa tiễn cầm tay, Mỹ có M.72  và các loại hỏa tiễn đất đối không (ground to air), và diện địa (surface to surface) rất hữu hiệu. Nhưng những loại này chỉ được tung ra trên mặt trận miền Nam, SAU KHI hỏa tiễn B.40 và B.41 của Cộng quân đã tung hoành ngang dọc, hí lộng sa tràng. Mùa hè đỏ lửa, để chống lại M.72, Cộng Quân dùng thiết giáp T.54. Lúc ấy, M. 72 chỉ có tác dụng khi bắn thẳng vào thùng xăng. Bắn vào xích cũng không làm cho xe địch không tác xạ được.  Sự yếu kém đó làm cho T.54 của Cộng Quân ào ào tiến vào miền Nam. Mãi sau, Mỹ mới gửi sang loại M. 202 có bốn nòng 66mm. Loại hỏa tiễn cầm tay này có thể bắn bốn loại đạn khác nhau, chống biển người, đạn Napalm, đạn lõm là khắc tinh của T.54. Loại này đã được quân đội Mỹ chế tạo ngay từ sau thế chiến thứ 2. Sinh viên Sĩ Quan Mỹ đã được bắn mỏi vai trước khi gửi sang miền Nam.

Những sinh viên sĩ quan Mỹ không thể nào quên được những buổi biểu diễn hỏa lực kinh hồn, hỏa lực mà ít thấy trao cho quân đội miền Nam, hoặc giao khi trận chiến gần tàn. Thí dụ như xe tăng bắn 400 quả lựu đạn M.79 một phút, nghe y hệt như tiếng bò rống của đại liên gắn trên C 130. Mỗi quả lựu đạn có tầm sát thương trên 10 mét vuông, giả sử mà làm một loạt vào rừng cao su, nơi một tiểu đoàn Cộng Quân đóng chốt, thì chỉ trong  vài phút có thể tiêu tan vài trăm mạng, vì không giống như đại bác, quả đạn to có thể bị vướng chướng ngại nên nổ linh tinh, trong khi quả M.79 gọn nhẹ, mà 400 quả trong một phút, 5 phút có 2000 quả lựu đạn được tung ra theo hướng vòng cầu,  rớt từng lỗ, như thẩy bi... Còn những loại thiết giáp trang bị 4 nòng đại bác, thiết giáp phun lửa (M 67 Zippo), thiết giáp M2HB gắn đại liên 50 ly, xe tăng M 42 trang bị hai khẩu 40 ly có thể gây kinh hoàng cho cả tiểu đoàn địch quân. Những loại này, nếu đuợc tăng cường đều tới các đơn vị chiến đấu của miền Nam, liệu Cộng Quân có đứng vững nổi tại miền Nam không"

Nói về hỏa lực tầm xa, lại càng đau lòng. Sinh viên sĩ quan Mỹ đã được học bắn 105mm di động đặt sau xe díp, tầm xa 7600 mét, có ống nhìn ban đêm. Học bắn trực xạ chỗ này, rồi kéo xe chạy chỗ khác, cơ động rất nhanh. Nhưng rất tiếc, là loại này, nếu để tại chiến trường miền Nam thì không thể đối phó với hỏa tiễn 122mm của Liên Xô có tầm bắn 20400 mét, nghĩa là xa gần gấp 3 lần, mà sức phá hủy lại mạnh hơn. Cộng quân còn những hỏa tiễn cầm tay, bắn xa cả hai chục cây số ("), dù bắn không chính xác, nhưng cũng đủ phá hủy thành trì của mình, mà mình chịu trận, vì bắn trả không tới địch. Ngay cả đến 155mm cũng chỉ bắn được có 14600 mét. Hãy tưởng tượng hai đối thủ đứng cách xa nhau, một người A có thể bắn xa 20 mét, lính B chỉ bắn được có hơn 10 mét, thì nếu lính A đứng cách B 20 mét mà nã đạn thì lính B chỉ có giơ tay lên trời, chờ chết, vì đạn mình bắn chỉ tới nửa đường rồi rớt xuống đất, không mong gãi ngứa được địch thủ. Mãi sau, quân Mỹ mới mang sang loại 175 mm Self Propelled Howitzer, có tầm bắn 33 cây số, có thể bao giàn một vùng, nhưng súng lại quá nặng nề, di chuyển bằng xe tăng hạng nặng trên các chiếc cầu miền Tây là cầu gục hết. Một viên đạn lại quá nặng, phải vài người đẩy lên một cái máy kéo lên cao... Loại súng này như một anh chàng khổng lồ bị gẫy chân, cứ đứng một chỗ, hù dọa con nít, mà chạy đuổi theo kẻ trộm không được. Mà mỗi lần muốn bắn một quả, phải ... xin phép!

Sau khi hiệp định Paris được ký kết, hình như mỗi lần một chiếc máy bay muốn cất cánh để yểm trợ quân bạn, cũng phải ... xin phép DAO. Xe tăng không có xăng, súng không có đạn, quân lực Cộng Hòa chỉ còn là những dũng sĩ mình đồng da sắt, đánh tay không với kẻ địch trang bị tận răng. Một anh bạn của người viết, từng là Chiến Đoàn Trưởng một chiến đoàn đặc nhiệm đã khóc khi kể về lúc anh nhìn thấy từng đoàn bộ đội kéo pháo đi gần chỗ đóng quân của anh, mà anh không được phép nổ súng, vì theo lời của Trên, sau khi anh bắn hết 100 quả đạn trong kho, chúng sẽ dội vào đầu anh 1000 quả. Lúc đó thì sao"

Như thế, bỏ qua yếu tố chính trị và những thủ đoạn kinh tởm của thế lực quốc tế, chỉ nhìn vào vài con số sơ lược do một người không chuyên môn về đạn pháo cũng đủ thấy rằng số phận Miền Nam đã được định đoạt từ lâu. Chỉ có tinh thần dũng cảm của quân dân miền Nam mới chịu trận được vài chục năm như thế. Nếu trường hợp này mà rơi vào một dân tộc khác, chắc đã tan hàng từ những thập niên 60 rồi.

Vì vậy, cho dù là một người không tim, không óc, cũng phải nghiêng mình trước ý chí cương quyết, lòng can đảm, tài trí lãnh đạo, khả năng chiến đấu tuyệt trần của quân đội Cộng Hòa, cùng với sự hy sinh không bờ bến của cả Quân và Dân Miền Nam. Quân Đội Việt Nam là một Quân Đội Anh Hùng bị bức tử oan uổng!
Cám ơn Asia đã cho chiêm ngưỡng lại một giai đoạn kiêu hùng của dân tộc. Cám ơn các nghệ sĩ, diễn viên đã làm sống lại những hình ảnh anh hùng và tình quân dân bền chặt của những thập niên ấy, cho thế hệ sau này cùng ngưỡng mộ.

  Chu Tất Tiến.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.