Hôm nay,  

Bin Laden, APEC và Truyền thông

08/09/200700:00:00(Xem: 9765)

Laden dư dôi, APEC nghiêm trọng và truyền thông vô dụng...

Suốt buổi sáng Thứ Sáu mùng bảy, truyền thông Hoa Kỳ tập trung phân tách một đề tài nóng nhất, là cuốn băng hình do al-Qaeda phổ biến, có hình ảnh của Osama bin Laden.

Một màn biểu diễn mức cận thị cao độ của các nhà bình luận Hoa Kỳ.

Từ sau vụ khủng bố 9-11, ngày 11 tháng Chín 2001, đến nay, thủ lãnh Osama bin Laden đã 18 lần bắn tin cho thế giới, khi qua băng hình, khi bằng băng ghi âm. Chúng ta cần phân biệt hình và tiếng vì mỗi loại lại đòi hỏi một số điều kiện khó dễ khác nhau về kỹ thuật, tức là về an ninh. Và qua băng hình, người ta có thể xác nhận là bin Laden thật hay giả, mạnh hay yếu. Hoặc sống hay chết.

Lần cuối mà thế giới được xem băng hình của bin Laden là vào ngày 29 tháng 10 năm 2004, nhằm tác động vào cuộc bầu cử Hoa Kỳ. Sau đó chỉ nghe thấy tiếng nói mà một số dư luận cho rằng thủ lãnh bin Laden đã lâm trọng bệnh, hoặc đã chết.

Vì vậy, lần này dư luận Mỹ mới chú ý vì đã được thông báo rằng al-Qaea sẽ có món quà kỷ niệm sáu năm của vụ khủng bố. Và nếu quả thật là bin Laden xuất hiện trước ống kính, ông ta chưa chết.

Một chi tiết đáng chú ý là ngay sau khi một hệ thống kiểm thính thông tin trong thế giới Hồi giáo báo trước món quà bằng băng hình này, giới hữu trách Hoa Kỳ đã tiết lộ rằng họ có cuốn băng đó rồi! Lập tức hệ thống truyền hình xưa nay vẫn quảng bá tin tức của al-Qaeda đã tắt đèn đóng cửa!

Nguy quá, vì sao tình báo Mỹ lại bắt được sản phẩm tuyên truyền của mình.

Suốt ngày Thứ Sáu, truyền thông Mỹ chỉ tìm hiểu về bản chất thực giả và nội dung của đòn thông tin mới của bin Laden. Người ta nói đến bộ râu đã được nhuộm đen, nét mặt có vẻ khang kiện hơn so với băng hình tháng 10 năm 2004.

Đấy là một chuyện thật ra vô ích!

Osama bin Laden đã làm nên lịch sử khi liên tục tấn công Hoa Kỳ từ năm 1993 và dứt điểm với vụ 9-11. Kể từ đó, thế giới đã thay đổi và Hoa Kỳ cũng vậy.

Theo truyền thống kém hiểu biết về lịch sử và địa dư chiến lược, Tổng thống Bush đã phạm sai lầm đầu tiên, thuộc loại chiến lược, khi nói đến Thập tự chinh (Crusade) trong bài diễn văn về Tình hình Liên bang đầu năm 2002. Từ trước vụ Iraq, ban tham mưu chiến lược của ông đã phải chịu trách nhiệm về sự sai lầm đó. Một sự sai lầm có đuôi, kéo dài tới việc giải tán quân đội Iraq và đảng Baath của Saddam Hussien.

Hoa Kỳ mở ra cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo mà gây ấn tượng là một cánh tay nối dài của một vụ xung đột tôn giáo - và thực chất là xâm lăng - xuất phát từ thời Trung Cổ, của Thiên chúa giáo chống lại Hồi giáo.

Lầm lẫn vì giảm bớt khả năng thuyết phục các thành phần Hồi giáo ôn hoà phải cùng Mỹ đứng lên tiêu diệt xu hướng Hồi giáo quá khích đang dùng đòn khủng bố để khuynh đảo cả thế giới Hồi giáo.

Osama bin Laden đã châm ngòi cho một chuyển động lịch sử làm thay đổi bộ mặt thế giới. Ông Bush tiếp tay khi không giải thích được cho rõ ràng nội dung của cuộc chiến toàn cầu chống lại một thành phần cực đoan và dù sao cũng là thiểu số trong thế giới Hồi giáo. Sự vụng về của ông khiến nhiều người Hồi giáo ghét Mỹ hơn ghét quân khủng bố.

Và rơi vào cái bẫy của bin Laden.

Thế giới bỗng nhiên bị kéo lại thời Trung Cổ với Hoa Kỳ lãnh đạo Thập tự quân tấn công vào thế giới Hồi giáo. Sự thật tất nhiên là khác, nhưng cảm quan của đa số là như vậy.

Mà cảm quan là yếu tố quan trọng trong hình thái chiến tranh kết hợp bạo động mù quáng với tâm lý chiến. Bush thua và nước Mỹ điêu đứng là vì thiếu khái niệm về chiến tranh tâm lý, một vấn đề văn hoá bất ngờ của một quốc gia siêu hạng về nghệ thuật quảng cáo!

Tuy nhiên, Osama bin Laden không thành công về mặt chiến lược, vì không một chế độ Hồi giáo ôn hoà nào trên thế giới lại bị xu hướng Hồi giáo cực đoan lật đổ để góp phần xây dựng một Vương quốc Hồi giáo toàn cầu, được cai trị bằng giáo luật hà khắc theo lời kêu gọi của bin Laden.

Chẳng những không thành công, bin Laden còn chia sẻ với ông Bush một trách nhiệm khác: tạo điều kiện cho sự lớn mạnh của xu hướng Hồi giáo cực đoan khác, theo hệ phái Shia.

Sáu năm nay, al-Qaeda không thể tấn công vào quyền lợi Hoa Kỳ, trong hay ngoài lãnh thổ Mỹ, nhưng đoàn Thập tư quân cho ông Bush lãnh đạo bị khựng tại Iraq, và giờ đây có tiến hay thoái cũng chẳng do al-Qaeda mạnh hay yếu. Mà do khả năng gây rối của các Giáo chủ Shia tại Tehran.

Nước Mỹ đang phải đối đầu với Iran, theo hệ phái Shia, và sự nghiệp của Tổng thống Bush tùy thuộc vào khả năng thuyết phục hay răn đe Tehran hơn là các lãnh tụ al-Qadea, dù bin Laden còn sống hay đã chết.

Bin Laden có thể chưa chết, trút hơi tàn để đánh một màn tuyên truyền ngoạn mục vào nước Mỹ vì đấy là khả năng tối đa. Nhưng điều ấy không làm thay đổi tình hình tại Afghanistan, Iraq, vùng Đông Phi, là nơi al-Qaeda còn cơ sở hoạt động. Và các nhóm al-Qaeda nội hoá, tự phát, các tay khủng bố học đòi al-Qaeda để tấn công London hay nước Đức, cũng chẳng làm thay đổi được tình hình.

Làm thay đổi tình hình thế giới và chính trường Mỹ là chủ trương và khả năng của Iran.

Xuất thân từ hệ phái Sunni, Osama bin Laden đã dọn cỗ cho hệ phái thiểu số là Shia gặt hái thành quả là lãnh đạo thế giới Hồi giáo để chống Mỹ. Và khiến đệ nhất siêu cường phải nói chuyện phải quấy với mình! Ông ta là người của lịch sử và đã đi vào lịch sử.

Trở thành dư dôi không cần thiết! Giờ này, Mỹ có thắng hay bại thì cũng chẳng do sức khoẻ của bin Laden hay khả năng ra đòn của al-Qaeda.

Vậy mà truyền thông và các bình luận gia Mỹ cứ chạy theo cái đuôi ấy để bắt mạch và bình nghị!

Đáng tiếc hơn cả là họ tường thuật rất ít về một biến cố khác, ở một nơi quá xa cho tầm nhìn của nước Mỹ, ở Sydney, thuộc Úc Đại Lợi. Đó là Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái bình dương APEC.

Diễn đàn này quy tụ 21 quốc gia trong vành cung Thái-Á, sản xuất ra 60% sản lượng toàn cầu. Và chủ trì Thượng đỉnh năm nay là Úc Đại Lợi, một đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ tại Á châu.

Dù bị đa số dân Úc phản đối, Thủ tướng John Howard tiếp tục sát cánh cùng Mỹ tại Iraq, không thua kém gì Thủ tướng Tony Blair của Anh. Nhân Thượng đỉnh năm nay, ngày mùng năm, hai lãnh tụ Mỹ-Úc còn ký hiệp ước hợp tác chiến lược về quân sự và thương mại, tương tự như hiệp định Anh-Mỹ, đã ký kết ngày 27 tháng Sáu.

Kể từ nay, và cho dù ông John Howard hết làm Thủ tướng, Úc Đại Lợi trở thành đồng minh với Mỹ ở Á châu, ngang hàng với nước Anh tại Âu châu. Với hiệp định ấy, việc làm ăn mua bán - kể cả chiến cụ - giữa hai nước sẽ được giải quyết theo thủ tục khác. Và Úc Đại Lợi sẽ sớm thành một cường quốc quân sự trong khu vực tiếp giáp với một nước đông dân Hồi giáo nhất thế giới là Indonesia, một xương sống gai góc để giữ gìn an ninh - cho Hoa Kỳ - trong khu vực sinh hoạt của Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á. Và là vòng đai bảo vệ Thái bình dương kéo dài từ Nhật Bản tại Đông Á xuống tới New Zealand. Một tin kém vui cho Trung Quốc và liên minh Nga-Hoa tại Á châu!

Một biến cố như vậy có hậu quả thật ra lâu dài hơn băng hình của bin Laden mà bị truyền thông Mỹ gác qua một bên. Một biểu hiện khác của chứng tật Hoa Kỳ: coi thường đồng minh mà coi trọng kẻ thù!

Sau chuyến thăm viếng chính thức nước Úc, Tổng thống Bush sẽ dự Thượng đỉnh APEC tại Sydney trong hai ngày mùng tám mùng chín, và bên lề Thượng đỉnh là gặp các lãnh tụ Á châu Thái bình dương khác. Gặp ai nói gì là chuyện quan trọng, và hiển nhiên quan trọng hơn vụ tuyên truyền của al-Qaeda.

Thí dụ như ông Bush có thái độ ôn hoà với Chủ tịch Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc, và có thể đã đạt thoả thuận giải quyết ung nhọt Miến Điện độc tài cho Hiệp hội ASEAN. Điều đáng tiếc nhất cho ông Bush không là những vấp váp cũng truyền thống của ông, như nói lầm tên APEC thành OPEC, hoặc gọi lầm tên đồng minh Australia thành Austria, một xứ trung lập tại Âu châu. Đáng tiếc là ông mau mắn nhận lời Chủ tịch Hồ Cẩm Đào qua dự Thế vận hội Bắc Kinh 2008.

Ông cần có mặt tại nơi phồn hoa đó vào tháng Tám năm tới trước khi khăn gói ra về" Những kêu gọi về dân chủ và nhân quyền của ông có còn giá trị gì không" Đấy là một điều rất đáng bình luận chứ!

Ngoài ra, và nhìn vào một khung cảnh rộng lớn hơn, trong khi dư luận Mỹ coi như Hoa Kỳ và ông Bush bị chôn vùi tại Iraq, ít ai nhận ra một biến động khác trong mấy năm qua tại Á châu.

Dù bị kẹt tay vào cái bẫy Iraq, Hoa Kỳ vẫn khai thác tối đa lợi thế của APEC. Đây là diễn đàn do... Úc Đại Lợi gợi ý thành lập từ năm 1993 để cân bằng lại thế lực kinh tế của khu vực Bắc Mỹ (Hiệp định Tự do Thương mại NAFTA giữa Canada, Hoa Kỳ và Mexico) và Liên hiệp Âu châu. Thời đó, khối APEC còn yếu, với sản lượng chỉ bằng phân nửa thế giới. Ngày nay, các nước APEC đã là sức mạnh kinh tế đáng nể, với ba nước sản xuất nhiều nhất thế giới là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc.

Rồi thế lực kinh tế kéo theo thế lực chính trị, APEC không còn là một câu lạc bộ làm ăn giữa các hội viên (như ASEAN) mà còn là diễn đàn về các vấn đề chiến lược toàn cầu.

Tại Thượng đỉnh APEC, Tổng thống Bush đã bắn tiếng - và gây nhạc nhiên, nhất là cho Tổng thống Nam Hàn - là Hoa Kỳ có thể chính thức kết thúc chiến tranh Cao Ly với một hiệp ước bất tương xâm ký kết với cả hai nước Nam và Bắc Hàn. Nếu Bình Nhưỡng thực tâm từ bỏ kế hoạch nguyên tử như họ đã hứa.

Chiến tranh Cao Ly là cuộc chiến chưa có đoạn kết mà chỉ có một hiệp định ngưng bắn, từ năm 1953. Nếu Mỹ giải quyết được hồ sơ nóng là tranh chấp Nam-Bắc Hàn và cất được đòn bắt bí thiên hạ bằng võ khí nguyên tử của Bắc Hàn, tình hình Đông Bắc Á sẽ đổi khác.

Hiển nhiên là quan trọng hơn màu đen hay màu xám của bộ râu bin Laden!

Tại Thượng đỉnh APEC, Hoa Kỳ còn có cơ hội phá vỡ nỗ lực kiểm soát hiện tượng nhiệt hoá địa cầu của Hiệp định thư Kyoto, với một đề nghị hợp tác khác, bao gồm cả Trung Quốc. Và APEC cũng là nơi xuất phát dự án đối thoại và hợp tác để bảo vệ tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phẩm. Đề án của APEC được tung ra cùng ngày công ty Mattel của Mỹ báo tin sẽ thu hồi (thêm) 800 ngàn đồ chơi trẻ em được chế tạo tại Trung Quốc!

Sau cùng, diễn đàn APEC còn đẩy mạnh trào lưu tự do mậu dịch và trở thành giải pháp cấp vùng mà điền thế cho giải pháp toàn cầu đang bị bế tắc là vòng đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.

APEC vì vậy là một sân chơi khác của Hoa Kỳ, để đặt ra một luật chơi khác giữa các nước, hầu phát huy tự do mậu dịch, bảo vệ môi sinh và tănh cường chế độ kiểm phẩm. Luật chơi ấy sẽ quàng thêm một cái ách nữa vào cổ giới lãnh đạo Bắc Kinh.

Vậy mà ngần ấy chuyện xảy ra tại Sydney tuần này lại không được tường thuật và trình bày đầy đủ. Dư luận Mỹ chỉ chú trọng đến chuyện Iraq và đòn tuyên truyền của bin Laden! Hèn gì, dân Mỹ nổi tiếng là kém về lịch sử và địa dư, và 20% trẻ em Mỹ không thể chỉ được cho đúng bản đồ của Hoa Kỳ trên trái địa cầu. Nói chi đến Australia!

Có lầm với Austria như ông Bush thì cũng dễ hiểu thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.