Hôm nay,  

Ngày Lễ Độc Lập Của Nước Cộng Hòa Ba Lan

11/11/200800:00:00(Xem: 7465)

Ngày lễ độc lập của Nước Cộng hòa Ba Lan

(Tài liệu Bộ Ngoại Giao Ba Lan Gửi Nhân Ngày Độc Lập Ba Lan. Đặc biệt nêu rõ chuyện xảy ra thời chế độ Cộng Sản Ba Lan đã bóp méo lịch sử về Ngày Độc Lập.)
Ba Lan đã “nổ tung” vào ngày 11 tháng 11 năm 1918. Những người tham gia và các nhân chứng của sự kiện xảy ra 90 năm trước đây đã miêu tả thời khắc đất nước của chúng tôi giành lại độc lập sau 123 năm mất chủ quyền: “không khác gì bản hoà âm cuối cùng rất đỗi hùng tráng đã chấm dứt cuộc chiến đấu trường kỳ của nhân dân Ba Lan vì nền độc lập của Tổ quốc.”
Việc Ba Lan bị ba cường quốc Phổ, Nga và Áo phân chia vào cuối thể kỷ XVIII đã không hề gây bất ngờ. Tuy nhiên sự sụp đổ thực sự của nước Cộng hoà Ba Lan I vì cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã gây ra một cú sốc lớn trong xã hội Ba Lan mà kèm theo nó là một tâm lý nổi loạn cũng như chống đối thực trạng và nguyên nhân đưa đẩy đất nước đến thực tại đó. Bên cạnh một vài thái độ thụ động và thờ ơ đối với bối cảnh lúc bấy giờ, hai quan điểm hoàn toàn khác đã xuất hiện trong xã hội: sự cố gắng bảo vệ bản sắc dân tộc và sự quyết tâm không ngừng để giành lại được độc lập. Đó chính là đặc điểm rõ nét nhất của xã hội Ba Lan sau khi bị phân chia.
Niềm tin vào thắng lợi của chiến tranh vũ trang cùng với sự tin tưởng về một thoả thuận sẽ được ký kết với các cường quốc phân chia, giai đoạn sau khi bị chia cắt chính là thời kỳ mà các cuộc khởi nghĩa nhân dân chống quân xâm lược diễn ra liên miên, đồng thời quá trình xác lập một xã hội Ba Lan hiện đại cũng được tiến hành bền bỉ. Không chỉ có giai cấp trí thức trong xã hội nuối tiếc những nỗ lực to lớn của cuộc cải cách được bắt đầu trước khi Cộng hoà Ba Lan I sụp đổ, đó là công trình soạn thảo một bản hiến pháp hiện đại. Với nhiệm vụ phải thay đổi diện mạo nhà nước Ba Lan. Đó chính là Hiến pháp mồng 3 tháng 5 năm 1791 - bản hiến pháp đầu tiên của châu Âu cùng với thời gian đã giành được vị trí xứng đáng trong lịch sử. Hiến pháp mồng 3 tháng 5 trở thành mối đe doạ đối với nhiều phe phái có thế lực trong nước cũng như các cường quốc láng giềng, đặc biệt là Nga, nên đã bị Nga lấy đó làm cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Ba Lan nhân khi các phe đối lập Ba Lan phản bội. Ba Lan đã bị Nga cùng với Phổ chia cắt trong một thời gian dài sau khi bại trận trong cuộc chiến với Nga và tình trạng này đã kéo dài suốt thế kỷ XIX. Cứ mỗi lần người Ba Lan cố gắng thay đổi tình thế thì các cường quốc láng giềng lại chung sức dập tắt mọi nỗ lực của họ. Mỗi thất bại là một kinh nghiệm mới cho các thế hệ nhân dân Ba Lan. Ý thức về mối đe doạ đã trở thành một yếu tố thường trực trong nền văn hoá chính trị của đông đảo các tầng lớp xã hội Ba Lan.
Phải đến thời kỳ Napoleon, tình hình mới trở nên thuận lợi hơn kể từ khi cuộc khởi nghĩa do Tadeusz Kosciuszki lãnh đạo bị dập tắt tàn bạo vào năm 1794. Những hy vọng gắn liền với Napoleon tan vỡ cùng với sự sụp đổ của Ông, tuy nhiên nó đã đem lại một kết quả quan trọng - vấn đề về Ba Lan đã được đưa ra trước công luận quốc tế. Vương quốc Warszawa được thiết lập vào năm 1807 và được điều hành ổn thoả trong một vài năm đã chứng minh được rằng nhân dân Ba Lan hoàn toàn có thể gánh vác được trọng trách của đất nước mình.    
Hai cuộc khởi nghĩa dân tộc lớn nhất là Khởi nghĩa tháng 11 năm 1830 và Khởi nghĩa tháng Giêng năm 1863 cũng là những nỗ lực tiếp theo không có kết quả của người Ba Lan trong việc tận dụng tình thế quốc tế để giành độc lập. Cuộc tranh luận về ý nghĩa của các cuộc khởi nghĩa này vẫn còn kéo dài đến tận ngày hôm nay. Các cường quốc phân chia Ba Lan đã tổ chức nhiều cuộc đàn áp đẫm máu khiến cho rất nhiều nạn nhân thiệt mạng. Thất bại trở thành đề tài mà một phần đáng kể trong xã luận châu Âu bấy giờ dùng để xây dựng một mẫu hình rất bất lợi về người Ba Lan, cũng như nhạo báng các nỗ lực của họ trong công cuộc giành độc lập. Tuy nhiên quan điểm phổ biến ngày nay là: tại thời điểm lịch sử mà không thể làm gì để thay đổi được nữa thì cần phải trân trọng mọi phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bên cạnh đấu tranh vũ trang và tăng cường quan hệ chính trị, những hoạt động nhằm duy trì bản sắc dân tộc trong hoàn cảnh mất nước như bảo vệ tiếng mẹ đẻ và ý thức về di sản lịch sử, văn hoá của dân tộc là rất quan trọng. Nga, Áo, Phổ đã thực hiện chính sách đồng hoá dân tộc Ba Lan với tốc độ và mức độ khác nhau. Chính sách này đã đem lại những hậu quả rất đau xót khiến cho người dân Ba Lan phải vượt qua rất gian nan vất vả. Không thể đếm được bao nhiêu các hình thức tự tổ chức và chống đối chính sách của Nga, Áo, Phổ trong việc đồng hoá cộng đồng Ba Lan. Nó liên quan đến cả các hình thức tự vệ đối phó với chính sách của quân xâm lược nhằm làm suy yếu nền kinh tế Ba Lan.
Các cuộc khởi nghĩa dân tộc làm nảy sinh những làn sóng lưu vong. Trong lịch sử của dân tộc Ba Lan quá trình di cư đã đóng vai trò vừa là phương thức bảo vệ những ký ức của dân tộc, mặt khác lại là cách để sáng tạo hình ảnh của đất nước trong tương lai. Nhiều tác phẩm nghệ thuật của Ba Lan đã được sáng tác trong thời gian thế kỷ XIX. Adam Mickiewicz, Juliusz Slowacki, Zygmunt Krasinski, Cyprian Kamil Norwid không chỉ là những nhà thơ lớn, trong các tác phẩm và hoạt động xã luận của mình, các nhà thơ này đã làm rung động lương tâm những con người Ba Lan khi nhắc lại trách nhiệm của họ trong việc đất nước bị chia cắt và cuộc chiến bị thất bại. Bên cạnh đó, họ đã chỉ ra nhiệm vụ và thách thức trong tương lai, đôi khi dưới góc độ rất thần bí. Fryderyk Chopin cũng đã thể hiện sự sáng tạo của mình trong thời kỳ cư trú ở nước ngoài. Một nhạc sỹ vĩ đại của thế hệ tiếp theo trong thời kỳ đất nước bị chia cắt là Ignacy Jan Paderewski. Ông đã dùng âm nhạc của mình như là phương tiện để công bố sự thật về số phận của đất nước mình và bằng cách này tại một thời điểm nhất định đã có ảnh hưởng đến quan điểm của Tổng thống Mỹ Th.W.Wilson về Ba Lan. Ba Lan đã sản sinh cho thế giới nhiều nhân tài trong số các kiều dân của mình. Kỹ sư Ernest Malinowski là kiến trúc sư và là công trình sư tác giả của Đường sắt trung tâm xuyên dãy Andy được coi là một công trình kỹ thuật diệu kỳ của thế kỷ XIX. Ignacy Domeyko - người đã từng tham gia Khởi nghĩa tháng 11 đã được công nhận là một trong những người có công lao to lớn nhất trong quá trình phát triển kinh tế, khoa học và văn hoá của Chi Lê. Pawel Edmund Strzelecki – nhà du lịch, địa chất học và địa lý học Ba Lan đã góp phần quan trọng với vai trò là nhà nghiên cứu châu Úc, New Zealand và Tasmani. Maria Sklodowska –Curie cũng đã phát triển tài năng của mình khi cư trú ở nước ngoài. Nhiều phe đảng chính trị hiện đại của Ba Lan cũng xuất hiện trong thời gian lưu vong, cụ thể là Liên đoàn Ba Lan (thành lập tại Giơ Ne vơ năm 1887) và Đảng Xã hội Ba Lan (tại Paris vào năm 1892) đã đóng vai trò cơ bản trong việc xây dựng nhà nước Ba Lan vào ngày 11 tháng 11 năm 1918. Các vị thủ lĩnh của hai đảng đó là Roman Dmowski và Jozef Pilsudski được coi là những nhà sáng lập chính của Cộng hoà Ba Lan II.


Trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược để giành độc lập, đại diện tất cả các tầng lớp xã hội, tất cả các tín ngưỡng và dân tộc đều tham gia. Một ví dụ cụ thể đó là thương gia người Do Thái Berek Joselewicz – người sáng lập và chỉ huy trung đoàn kỵ sỹ chiến đấu với quân Nga để bảo vệ thủ đô Warszawa trong Khởi nghĩa do Kociuszki lãnh đạo. 
Nhà thờ cơ đốc cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc dân tộc và văn hoá của người Ba Lan. Họ đã cùng chung số phận với các con chiên. Cha cố và các vị chức sắc cũng đã bị quân xâm lược giam cầm và bị lưu đầy ở tận nước Nga.                      
Những nỗ lực giải phóng của nhân dân Ba Lan luôn gặp được sự ủng hộ của đông đảo người dân châu Âu và thái độ đoàn kết của nhân dân nhiều nước. Tại đây cần nhắc đến làn sóng ủng hộ các chiến sỹ của cuộc Khởi nghĩa tháng 11 bị lưu đầy diễn ra ở Pháp, Bỉ, Đức và Hungary. Những người yêu nước Đức đã lấy tấm gương của các chiến sỹ Ba Lan soi vào quá trình thống nhất đất nước mình. Điều này cũng đã được lặp lại sau một thế kỷ rưỡi khi người Đức lại áp dụng các kinh nghiệm và thắng lợi của phong trào “Công đoàn đoàn kết”. Những nghệ sỹ nổi tiếng thế giới đã cống hiến cho Ba Lan những tác phẩm của mình và những người ngoại quốc cũng tham gia vào các cuộc nổi dậy.
Quân xâm lược không thể xoá bỏ Ba Lan khỏi diễn đàn châu Âu cho dù có tổ chức thêm các liên minh để chống lại đất nước này. Chính vì vậy mà nhà văn nổi tiếng Henryk Sienkewicz trong bài phát biểu nhân dịp nhận giải thưởng Nobel vào năm 1905 đã nói về Ba Lan như sau: “Họ công bố rằng Ba Lan đã chết, nhưng đây chính là một trong hàng ngàn bằng chứng cho thấy là đất nước này vẫn đang sống”.
Các xung đột về quyền lợi giữa các cường quốc xâm lăng ngày càng căng thẳng đã dẫn đến việc Đại chiến Thế giới thứ I bùng nổ. Điều đó đã đưa Ba Lan vào một hình thái chính trị mới mà người dân đã sẵn sàng. Họ đã nắm giữ được một mạng lưới những quan hệ chính trị quốc tế cần thiết. Trong các tổ chức và các đảng phái cũng đã bắt đầu xuất hiện mầm mống của một đội quân có khả năng tiếp quản chính quyền tại nước Ba Lan non trẻ. Các đơn vị quân đội Ba Lan trong phạm vi của một cơ chế tự trị cũng đã tham gia trên nhiều mặt trận trong Đại chiến Thế giới I. Các đồng minh tham gia cuộc phân chia đã từng lên tiếng trước đây về việc sẽ dần dần trả lại chủ quyền cho Ba Lan, song xã hội Ba Lan đã hiểu thấu mưu kế muốn dùng Ba Lan làm “bia đỡ đạn” của họ. Nó cũng trở thành lý do chính trị để Ba Lan tận dụng vào thời điểm thích hợp. Điều đó đã xuất hiện sau khi đế chế Rôman sụp đổ, người Đức thất trận và chính thể quân chủ Áo - Phổ thất bại và tan rã.
Trong ý thức của nhân dân Ba Lan Jozef Pilsudski là người nổi bật nhất trong số các nhà lãnh đạo. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 Hội đồng Nhiếp chính đã trao toàn quyền cho nhà chính khách lịch lãm với biệt tài về tổ chức và thao lược quân sự cũng như thiên tính đặc biệt về chính trị này, chứ không phải chính phủ lâm thời tại Warszawa. Sự kiện đó đã đánh dấu việc nhà nước Ba Lan đã phục sinh sau 123 năm nô lệ.  
Nhân dân Ba Lan đã tiến hành nhiều cuộc chiến đấu ngay từ những ngày đầu tiên  trên nhiều mặt trận, chủ yếu với Đức và Bôn sê víc trong cuộc phòng vệ. Nhân dân Ba Lan đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Bôn sê víc vào năm 1920. Chiến thắng đó đã kìm hãm và không cho Mat-xơ-cơ-va thực hiện được chính sách bành trướng dưới chiêu bài “cách mạng thế giới”. Hàng loạt sự kiện chính trị và sự phát triển “Ba Lan Phục sinh” – một sáng kiến trong bối cảnh vô vàn các vấn đề, đã củng cố ý nghĩa của ngày 11 tháng 11 mặc dù mới được kỷ niệm chính thức có hai lần trước chiến tranh. Trong thời kỳ bị Đức và Nga Xô viết chiếm đóng, việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày 11 tháng 11 bị đe doạ bởi án tử hình, trại tập trung và tù đầy. Trong thời kỳ tồn tại cái được gọi là nước Ba Lan Nhân dân, việc tổ chức kỷ niệm ngày lễ 11 tháng 11 hàng năm đã bị cấm đoán và bị phao tin dối trá. Tuy nhiên xã hội Ba Lan không bao giờ quên ngày này. Dưới thời cộng sản việc tưởng nhớ sự kiện lịch sử này vô tình đã đi theo dấu của các phong trào phản kháng được áp dụng từ thời kỳ bị đất nước bị phân chia. Ngày này đã mang thêm ý nghĩa mới. Nó thể hiện giấc mơ trước đây của nhân dân Ba Lan về một nước Ba Lan độc lập đã trở thành hiện thực.
Thế hệ người Ba Lan bây giờ gặp được hoàn cảnh thuận lợi hơn nhiều nên cần ít thời gian hơn cho chiến thắng trong đấu tranh giành chủ quyền dân tộc. Nghị định của quốc hội về việc chính thức công nhận Ngày lễ Độc lập 11 tháng 11 được thông qua vào tháng 2 năm 1989 đã khẳng định sự tiếp nối trong lịch sử của dân tộc và nhà nước Ba Lan, cũng như sự trân trọng đối với những nỗ lực của các thế hệ tiền bối.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.