Ngày lễ độc lập của Nước Cộng hòa Ba Lan
(Tài liệu Bộ Ngoại Giao Ba Lan Gửi Nhân Ngày Độc Lập Ba Lan. Đặc biệt nêu rõ chuyện xảy ra thời chế độ Cộng Sản Ba Lan đã bóp méo lịch sử về Ngày Độc Lập.)
Ba Lan đã “nổ tung” vào ngày 11 tháng 11 năm 1918. Những người tham gia và các nhân chứng của sự kiện xảy ra 90 năm trước đây đã miêu tả thời khắc đất nước của chúng tôi giành lại độc lập sau 123 năm mất chủ quyền: “không khác gì bản hoà âm cuối cùng rất đỗi hùng tráng đã chấm dứt cuộc chiến đấu trường kỳ của nhân dân Ba Lan vì nền độc lập của Tổ quốc.”
Việc Ba Lan bị ba cường quốc Phổ, Nga và Áo phân chia vào cuối thể kỷ XVIII đã không hề gây bất ngờ. Tuy nhiên sự sụp đổ thực sự của nước Cộng hoà Ba Lan I vì cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã gây ra một cú sốc lớn trong xã hội Ba Lan mà kèm theo nó là một tâm lý nổi loạn cũng như chống đối thực trạng và nguyên nhân đưa đẩy đất nước đến thực tại đó. Bên cạnh một vài thái độ thụ động và thờ ơ đối với bối cảnh lúc bấy giờ, hai quan điểm hoàn toàn khác đã xuất hiện trong xã hội: sự cố gắng bảo vệ bản sắc dân tộc và sự quyết tâm không ngừng để giành lại được độc lập. Đó chính là đặc điểm rõ nét nhất của xã hội Ba Lan sau khi bị phân chia.
Niềm tin vào thắng lợi của chiến tranh vũ trang cùng với sự tin tưởng về một thoả thuận sẽ được ký kết với các cường quốc phân chia, giai đoạn sau khi bị chia cắt chính là thời kỳ mà các cuộc khởi nghĩa nhân dân chống quân xâm lược diễn ra liên miên, đồng thời quá trình xác lập một xã hội Ba Lan hiện đại cũng được tiến hành bền bỉ. Không chỉ có giai cấp trí thức trong xã hội nuối tiếc những nỗ lực to lớn của cuộc cải cách được bắt đầu trước khi Cộng hoà Ba Lan I sụp đổ, đó là công trình soạn thảo một bản hiến pháp hiện đại. Với nhiệm vụ phải thay đổi diện mạo nhà nước Ba Lan. Đó chính là Hiến pháp mồng 3 tháng 5 năm 1791 - bản hiến pháp đầu tiên của châu Âu cùng với thời gian đã giành được vị trí xứng đáng trong lịch sử. Hiến pháp mồng 3 tháng 5 trở thành mối đe doạ đối với nhiều phe phái có thế lực trong nước cũng như các cường quốc láng giềng, đặc biệt là Nga, nên đã bị Nga lấy đó làm cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Ba Lan nhân khi các phe đối lập Ba Lan phản bội. Ba Lan đã bị Nga cùng với Phổ chia cắt trong một thời gian dài sau khi bại trận trong cuộc chiến với Nga và tình trạng này đã kéo dài suốt thế kỷ XIX. Cứ mỗi lần người Ba Lan cố gắng thay đổi tình thế thì các cường quốc láng giềng lại chung sức dập tắt mọi nỗ lực của họ. Mỗi thất bại là một kinh nghiệm mới cho các thế hệ nhân dân Ba Lan. Ý thức về mối đe doạ đã trở thành một yếu tố thường trực trong nền văn hoá chính trị của đông đảo các tầng lớp xã hội Ba Lan.
Phải đến thời kỳ Napoleon, tình hình mới trở nên thuận lợi hơn kể từ khi cuộc khởi nghĩa do Tadeusz Kosciuszki lãnh đạo bị dập tắt tàn bạo vào năm 1794. Những hy vọng gắn liền với Napoleon tan vỡ cùng với sự sụp đổ của Ông, tuy nhiên nó đã đem lại một kết quả quan trọng - vấn đề về Ba Lan đã được đưa ra trước công luận quốc tế. Vương quốc Warszawa được thiết lập vào năm 1807 và được điều hành ổn thoả trong một vài năm đã chứng minh được rằng nhân dân Ba Lan hoàn toàn có thể gánh vác được trọng trách của đất nước mình.
Hai cuộc khởi nghĩa dân tộc lớn nhất là Khởi nghĩa tháng 11 năm 1830 và Khởi nghĩa tháng Giêng năm 1863 cũng là những nỗ lực tiếp theo không có kết quả của người Ba Lan trong việc tận dụng tình thế quốc tế để giành độc lập. Cuộc tranh luận về ý nghĩa của các cuộc khởi nghĩa này vẫn còn kéo dài đến tận ngày hôm nay. Các cường quốc phân chia Ba Lan đã tổ chức nhiều cuộc đàn áp đẫm máu khiến cho rất nhiều nạn nhân thiệt mạng. Thất bại trở thành đề tài mà một phần đáng kể trong xã luận châu Âu bấy giờ dùng để xây dựng một mẫu hình rất bất lợi về người Ba Lan, cũng như nhạo báng các nỗ lực của họ trong công cuộc giành độc lập. Tuy nhiên quan điểm phổ biến ngày nay là: tại thời điểm lịch sử mà không thể làm gì để thay đổi được nữa thì cần phải trân trọng mọi phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bên cạnh đấu tranh vũ trang và tăng cường quan hệ chính trị, những hoạt động nhằm duy trì bản sắc dân tộc trong hoàn cảnh mất nước như bảo vệ tiếng mẹ đẻ và ý thức về di sản lịch sử, văn hoá của dân tộc là rất quan trọng. Nga, Áo, Phổ đã thực hiện chính sách đồng hoá dân tộc Ba Lan với tốc độ và mức độ khác nhau. Chính sách này đã đem lại những hậu quả rất đau xót khiến cho người dân Ba Lan phải vượt qua rất gian nan vất vả. Không thể đếm được bao nhiêu các hình thức tự tổ chức và chống đối chính sách của Nga, Áo, Phổ trong việc đồng hoá cộng đồng Ba Lan. Nó liên quan đến cả các hình thức tự vệ đối phó với chính sách của quân xâm lược nhằm làm suy yếu nền kinh tế Ba Lan.
Các cuộc khởi nghĩa dân tộc làm nảy sinh những làn sóng lưu vong. Trong lịch sử của dân tộc Ba Lan quá trình di cư đã đóng vai trò vừa là phương thức bảo vệ những ký ức của dân tộc, mặt khác lại là cách để sáng tạo hình ảnh của đất nước trong tương lai. Nhiều tác phẩm nghệ thuật của Ba Lan đã được sáng tác trong thời gian thế kỷ XIX. Adam Mickiewicz, Juliusz Slowacki, Zygmunt Krasinski, Cyprian Kamil Norwid không chỉ là những nhà thơ lớn, trong các tác phẩm và hoạt động xã luận của mình, các nhà thơ này đã làm rung động lương tâm những con người Ba Lan khi nhắc lại trách nhiệm của họ trong việc đất nước bị chia cắt và cuộc chiến bị thất bại. Bên cạnh đó, họ đã chỉ ra nhiệm vụ và thách thức trong tương lai, đôi khi dưới góc độ rất thần bí. Fryderyk Chopin cũng đã thể hiện sự sáng tạo của mình trong thời kỳ cư trú ở nước ngoài. Một nhạc sỹ vĩ đại của thế hệ tiếp theo trong thời kỳ đất nước bị chia cắt là Ignacy Jan Paderewski. Ông đã dùng âm nhạc của mình như là phương tiện để công bố sự thật về số phận của đất nước mình và bằng cách này tại một thời điểm nhất định đã có ảnh hưởng đến quan điểm của Tổng thống Mỹ Th.W.Wilson về Ba Lan. Ba Lan đã sản sinh cho thế giới nhiều nhân tài trong số các kiều dân của mình. Kỹ sư Ernest Malinowski là kiến trúc sư và là công trình sư tác giả của Đường sắt trung tâm xuyên dãy Andy được coi là một công trình kỹ thuật diệu kỳ của thế kỷ XIX. Ignacy Domeyko - người đã từng tham gia Khởi nghĩa tháng 11 đã được công nhận là một trong những người có công lao to lớn nhất trong quá trình phát triển kinh tế, khoa học và văn hoá của Chi Lê. Pawel Edmund Strzelecki – nhà du lịch, địa chất học và địa lý học Ba Lan đã góp phần quan trọng với vai trò là nhà nghiên cứu châu Úc, New Zealand và Tasmani. Maria Sklodowska –Curie cũng đã phát triển tài năng của mình khi cư trú ở nước ngoài. Nhiều phe đảng chính trị hiện đại của Ba Lan cũng xuất hiện trong thời gian lưu vong, cụ thể là Liên đoàn Ba Lan (thành lập tại Giơ Ne vơ năm 1887) và Đảng Xã hội Ba Lan (tại Paris vào năm 1892) đã đóng vai trò cơ bản trong việc xây dựng nhà nước Ba Lan vào ngày 11 tháng 11 năm 1918. Các vị thủ lĩnh của hai đảng đó là Roman Dmowski và Jozef Pilsudski được coi là những nhà sáng lập chính của Cộng hoà Ba Lan II.
Trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược để giành độc lập, đại diện tất cả các tầng lớp xã hội, tất cả các tín ngưỡng và dân tộc đều tham gia. Một ví dụ cụ thể đó là thương gia người Do Thái Berek Joselewicz – người sáng lập và chỉ huy trung đoàn kỵ sỹ chiến đấu với quân Nga để bảo vệ thủ đô Warszawa trong Khởi nghĩa do Kociuszki lãnh đạo.
Nhà thờ cơ đốc cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc dân tộc và văn hoá của người Ba Lan. Họ đã cùng chung số phận với các con chiên. Cha cố và các vị chức sắc cũng đã bị quân xâm lược giam cầm và bị lưu đầy ở tận nước Nga.
Những nỗ lực giải phóng của nhân dân Ba Lan luôn gặp được sự ủng hộ của đông đảo người dân châu Âu và thái độ đoàn kết của nhân dân nhiều nước. Tại đây cần nhắc đến làn sóng ủng hộ các chiến sỹ của cuộc Khởi nghĩa tháng 11 bị lưu đầy diễn ra ở Pháp, Bỉ, Đức và Hungary. Những người yêu nước Đức đã lấy tấm gương của các chiến sỹ Ba Lan soi vào quá trình thống nhất đất nước mình. Điều này cũng đã được lặp lại sau một thế kỷ rưỡi khi người Đức lại áp dụng các kinh nghiệm và thắng lợi của phong trào “Công đoàn đoàn kết”. Những nghệ sỹ nổi tiếng thế giới đã cống hiến cho Ba Lan những tác phẩm của mình và những người ngoại quốc cũng tham gia vào các cuộc nổi dậy.
Quân xâm lược không thể xoá bỏ Ba Lan khỏi diễn đàn châu Âu cho dù có tổ chức thêm các liên minh để chống lại đất nước này. Chính vì vậy mà nhà văn nổi tiếng Henryk Sienkewicz trong bài phát biểu nhân dịp nhận giải thưởng Nobel vào năm 1905 đã nói về Ba Lan như sau: “Họ công bố rằng Ba Lan đã chết, nhưng đây chính là một trong hàng ngàn bằng chứng cho thấy là đất nước này vẫn đang sống”.
Các xung đột về quyền lợi giữa các cường quốc xâm lăng ngày càng căng thẳng đã dẫn đến việc Đại chiến Thế giới thứ I bùng nổ. Điều đó đã đưa Ba Lan vào một hình thái chính trị mới mà người dân đã sẵn sàng. Họ đã nắm giữ được một mạng lưới những quan hệ chính trị quốc tế cần thiết. Trong các tổ chức và các đảng phái cũng đã bắt đầu xuất hiện mầm mống của một đội quân có khả năng tiếp quản chính quyền tại nước Ba Lan non trẻ. Các đơn vị quân đội Ba Lan trong phạm vi của một cơ chế tự trị cũng đã tham gia trên nhiều mặt trận trong Đại chiến Thế giới I. Các đồng minh tham gia cuộc phân chia đã từng lên tiếng trước đây về việc sẽ dần dần trả lại chủ quyền cho Ba Lan, song xã hội Ba Lan đã hiểu thấu mưu kế muốn dùng Ba Lan làm “bia đỡ đạn” của họ. Nó cũng trở thành lý do chính trị để Ba Lan tận dụng vào thời điểm thích hợp. Điều đó đã xuất hiện sau khi đế chế Rôman sụp đổ, người Đức thất trận và chính thể quân chủ Áo - Phổ thất bại và tan rã.
Trong ý thức của nhân dân Ba Lan Jozef Pilsudski là người nổi bật nhất trong số các nhà lãnh đạo. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 Hội đồng Nhiếp chính đã trao toàn quyền cho nhà chính khách lịch lãm với biệt tài về tổ chức và thao lược quân sự cũng như thiên tính đặc biệt về chính trị này, chứ không phải chính phủ lâm thời tại Warszawa. Sự kiện đó đã đánh dấu việc nhà nước Ba Lan đã phục sinh sau 123 năm nô lệ.
Nhân dân Ba Lan đã tiến hành nhiều cuộc chiến đấu ngay từ những ngày đầu tiên trên nhiều mặt trận, chủ yếu với Đức và Bôn sê víc trong cuộc phòng vệ. Nhân dân Ba Lan đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Bôn sê víc vào năm 1920. Chiến thắng đó đã kìm hãm và không cho Mat-xơ-cơ-va thực hiện được chính sách bành trướng dưới chiêu bài “cách mạng thế giới”. Hàng loạt sự kiện chính trị và sự phát triển “Ba Lan Phục sinh” – một sáng kiến trong bối cảnh vô vàn các vấn đề, đã củng cố ý nghĩa của ngày 11 tháng 11 mặc dù mới được kỷ niệm chính thức có hai lần trước chiến tranh. Trong thời kỳ bị Đức và Nga Xô viết chiếm đóng, việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày 11 tháng 11 bị đe doạ bởi án tử hình, trại tập trung và tù đầy. Trong thời kỳ tồn tại cái được gọi là nước Ba Lan Nhân dân, việc tổ chức kỷ niệm ngày lễ 11 tháng 11 hàng năm đã bị cấm đoán và bị phao tin dối trá. Tuy nhiên xã hội Ba Lan không bao giờ quên ngày này. Dưới thời cộng sản việc tưởng nhớ sự kiện lịch sử này vô tình đã đi theo dấu của các phong trào phản kháng được áp dụng từ thời kỳ bị đất nước bị phân chia. Ngày này đã mang thêm ý nghĩa mới. Nó thể hiện giấc mơ trước đây của nhân dân Ba Lan về một nước Ba Lan độc lập đã trở thành hiện thực.
Thế hệ người Ba Lan bây giờ gặp được hoàn cảnh thuận lợi hơn nhiều nên cần ít thời gian hơn cho chiến thắng trong đấu tranh giành chủ quyền dân tộc. Nghị định của quốc hội về việc chính thức công nhận Ngày lễ Độc lập 11 tháng 11 được thông qua vào tháng 2 năm 1989 đã khẳng định sự tiếp nối trong lịch sử của dân tộc và nhà nước Ba Lan, cũng như sự trân trọng đối với những nỗ lực của các thế hệ tiền bối.