Hôm nay,  

Hoa Kỳ Và Iran: Nhập Sòng Đàm Phán

20/05/200700:00:00(Xem: 9029)

...Dưới sự giám trận và phá hoại của al-Qaeda và Quốc hội Mỹ...

Cuối cùng thì Mỹ và Iran đã công khai công nhận là đôi bên bắt đầu mở cuộc đàm phán về Iraq.

Trên cột báo này, trong số ra ngày mùng bảy tháng Tư ("Úynh hay không Uýnh"") người viết đã phân tách hoàn cảnh của hai nước để kết luận rằng Hoa Kỳ sẽ không (thể) tấn công Iran mà thực ra đôi bên đang ở trong giai đoạn vừa đấu trí vừa đấu lực, vừa đánh vừa đàm, chứ không chính thức khai chiến. Tuần qua, hai bên đã thông báo sẽ có những tiếp xúc song phương để thảo luận về Iraq. Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad xác nhận điều đó hôm 13, và cho biết đôi bên sẽ gặp nhau tại Baghdad vào ngày 28 này. Về phần Hoa Kỳ, lời xác nhận xuất phát từ Phó Tổng thống Dick Cheney và Hội đồng An ninh Quốc gia.

Nghĩa là ở cấp bậc khó có thể chính thức hơn.

Thật ra, hai nước đã có những tiếp xúc từ trước, nhưng trong khung cảnh của hội nghị quốc tế, hồi tháng Ba tại Baghdad và tháng Năm tại Sharm el-Sheihk bên Egypt. Và từ tháng Ba năm ngoái, Đại sứ đương nhiệm của Hoa Kỳ tại Baghdad cũng đã đề cập tới việc đối thoại với Iran để giải quyết chuyện Iraq, và ông Zalmay Khalilzad này còn cho biết là có sự đồng ý của Ngoại trưởng Condoleezza Rice. Chuyện tháng Ba năm ngoái không thành, nay mới bắt đầu nhen nhúm.

Sau khi đã thấy sự bất khả của giải pháp dụng binh thì đôi bên phải dụng lễ. Tất nhiên họ đã thỏa thuận về thể thức hay thủ tục rồi nên mới chính thức công bố việc thương thuyết này.

Câu hỏi đầu tiên của mọi người là vì sao đôi bên lại đàm phán vào lúc này"

Nhìn từ Iran, Chính quyền Bush đang ở vào thế yếu và Tehran có một đồng minh khách quan là đảng Dân chủ trong Quốc hội Hoa Kỳ để cột tay ông Bush còn chặt hơn. Mặc cả với người yếu thế thì vẫn có lợi. Nhưng, nếu để trễ hơn nữa, đảng Dân chủ sẽ chột dạ và lật lọng để khỏi gánh trách nhiệm trong một năm bầu cử như đảng này đã từng bị vì vụ cột tay miền Nam Việt Nam năm 1974. Các Giáo chủ Tehran học thuộc bài bản chính trị Hoa Kỳ và hồ sơ Việt Nam hơn ta có thể nghĩ. Thực tế là vào năm 1979 họ đã trục lợi nhờ bài học đó về sự thất bại của Hoa Kỳ.

Nhưng họ cũng hiểu chuyện già néo đứt dây.

Nếu để trễ quá, Tehran sẽ phải nói chuyện với một Tổng thống tân cử của Mỹ, một nhân vật không bị mắc mứu gì trong Chính quyền Bush và có thế mạnh hơn gấp bội. Tehran còn nhớ điều ấy khi dại dột từ chối đàm phán với Chính quyền Carter về vụ bắt giữ 52 con tin là nhân viên ngoại giao của Mỹ để rồi gặp tay cứng cựa hơn ở Toà Bạch Cung năm 1981, khi Ronald Reagan nhậm chức Tổng thống. Họ không quên lỗi lầm năm 1980.

Nhìn từ Hoa Kỳ, chuyện Iraq khiến nước Mỹ xuất huyết và cuộc tranh cử 2008 đòi hỏi Chính quyền Bush phải có một chút thành tích chống khủng bố al-Qaeda hay hy vọng ổn định Iraq hầu chứng minh với cử tri. Khi 11 Dân biểu Cộng hoà lạnh cẳng vào gặp Tổng thống để phàn nàn, họ đã sớm chạy ra thông báo điều đó cho báo chí. Những con chuột nhắt này không muốn bị chìm cùng con tầu của Bush. Và ông Bush không muốn mang tội như Carter là làm cho đảng thất cử vì một thất bại đối ngoại.

Nhưng, George W. Bush không là Gerald Ford hay Jimmy Carter.

Bị đẩy tới đường cùng, Bush vẫn không chịu thua mà từ đầu năm đòi dồn quân đánh tiếp, làm Tehran chột dạ. Truyền thông Hoa Kỳ không thấy là đòn đánh dứ này bắt đầu công hiệu tại cả Iraq và với cả Iran. Đây là lúc Chính quyền Bush có thể tìm giải pháp triệt thoái khỏi vùng hoả tuyến mà không nhuốm màu tháo chạy. Muốn như vậy thì phải nói chuyện thẳng với một trong những tay chủ chi canh bạc ở bên kia chiến hào, là Iran.

Không xẵng giọng thì khó nói chuyện phải quấy được!

Nếu đảng Dân chủ có một chút xương sống thì cái thế đàm phán của Mỹ có thể mạnh hơn đôi chút, nhưng, gặp nước bài thế nào thì ông Bush đành chơi thế vậy. Do đó, Chính quyền Bush mới thực sự nói chuyện, mà vẫn có vẻ là không đi theo nước cờ của kẻ chầu rìa, là Tư lệnh Triệt thoái - Ủy ban Baker-Hamilton.

Bây giờ, đôi bên sẽ nói những gì vì muốn những gì"

Theo cái thế "cờ trong bạc ngoài", người ta có thể đoán rằng Hoa Kỳ muốn thành lập một Chính quyền Iraq (có thể với hệ phái Shia chiếm thượng phong nhưng vẫn) độc lập với Tehran, hữu nghị với các nước Á Rập Sunni lân cận và nhất là chống các nhóm khủng bố ngụy danh Thánh chiến (trước hết là al-Qaeda).

Sở dĩ như vậy là vì ba chuỗi lý do sau đây nhìn từ quyền lợi Hoa Kỳ:

Vì không thể là một xứ dân chủ, và thân Mỹ như Jordan, Egypt hay Saudi Arabia, ít ra Iraq phải là một quốc gia thống nhất và độc lập, không là chư hầu của Iran, hay một hậu cứ cho Tehran khuynh đảo toàn vùng. Thứ hai, Hoa Kỳ sẽ rút mà không ra khỏi Iraq, và nhất là không lật đật tháo chạy vì sẽ gây bối rối và khủng hoảng do phản ứng tự vệ của các nước Á Rập theo hệ phái Sunni (chủ yếu là Saudi Arabia, Egypt và Jordan), vốn cũng là những đồng minh lâu đời trong khu vực Trung Đông. Quan trọng nhất, Iraq sẽ không thể là hậu cứ cho các nhóm Thánh chiến Jihad mặc sức tung hoành với sự đồng lõa hay trước sự lặng thinh của các quốc gia Sunni (hầu chặn đà bành trướng của Iran theo hệ phái Shia).

Phần mình, Tehran có nêu khá rõ những yêu cầu của mình nhân hội nghị Sharm el-Sheihk ngày mùng bốn và được báo chí tiết lộ hôm mùng năm tháng này.

Trước hết - và Quốc hội Mỹ không nhìn ra mà chỉ tấn công Chính quyền Bush để lấy thành quả biểu kiến - Iran không muốn Hoa Kỳ và liên quân quốc tế lập tức rút khỏi Iraq vì sẽ để lại một khoảng trống cho những chuyển động bất ngờ mà Tehran không lường được. Và nhất là không thể kiểm soát nổi. Iraq là một xứ rộng lớn và đang có quá nhiều lực lượng rõ trang tự lập và tự phát với những chân rết có khi ăn sâu vào hai xứ lân bang là Turkey và Iran! Tehran muốn Hoa Kỳ giảm dần ảnh hưởng nhưng theo lịch trình và bài bản mà họ xử lý được. Giải pháp ngoại giao là "giúp Hoa Kỳ lối thoát danh dự" thực chất là cần Mỹ làm nốt nhiệm vụ bảo an và bàn giao lại những gì đã tương đối có quy củ!

Và nhất là còn kiểm soát hay khống chế được hai thành phần Sunni và Kurd.

Nhìn trên đại thể thì yêu cầu này của các Giáo chủ không phải là nghịch lý.

Hoa Kỳ không thể quay lưng lại Trung Đông và tháo gỡ mọi căn cứ tại Iraq. Thế chiến II đã kết thúc năm 1945, Chiến tranh Cao Ly ngưng bắn năm 1953, và Chiến tranh lạnh đã tàn năm 1991, nhưng Hoa Kỳ vẫn đồn trú quân đội tại Đức, Nhật và Nam Hàn, cho sự ổn định của các khu vực ấy. Các Giáo chủ Iran không là người lãng mạn mà đòi tối đa để nuốt không được.

Yêu cầu thứ hai của Tehran thực ra cũng gần với quan điểm của Mỹ.

Họ muốn Iraq thống nhất, nhưng không bị chia ba theo thể chế liên bang khiến phe Shia bị mất thế thống trị và hai sắc tộc kia sẽ có toàn quyền quyết định về những gì xảy ra trong lãnh vực (hay "tiểu bang") của họ. Muốn như vậy thì cũng phải phần nào thỏa mãn những đòi hỏi của phe Sunni, vốn sinh sống tại miền Trung có rất ít dầu khí trong một cơ chế chính trị khả dĩ đáp ứng được nguyện vọng của dân Sunni và Kurd.

Từ mục tiêu ấy, ta mới thấy ra một yêu cầu thứ ba của Tehran. Hoa Kỳ và Iran phải có kế hoạch hoà giải và hoà hợp ba thành phần sắc tộc (Shia 60% dân số, Sunni 20% và Kurd 20%) với một điều kiện then chốt: cộng đồng Sunni có nhiệm vụ truy lùng và giải trừ cho hết nọc Thánh chiến, dù là Thánh chiến nội địa (dân Sunni tại Iraq) hay ngoại nhập. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Hoa Kỳ. Đôi bên đều không muốn al-Qaeda tồn tại ở Iraq. Thật ra Tehran cũng chống khủng bố chẳng thua gì Mỹ - nhưng là khủng bố theo hệ phái Sunni!

Yêu cầu thứ tư là điều Hoa Kỳ khó chấp nhận hơn, các lân bang của Iran cũng vậy.

Đó là Iraq phải nằm trong vùng ảnh hưởng của Iran. Điều mơ hồ này thật ra rất khó chấp nhận cho các nước Ả Rập Sunni - đồng minh của Mỹ - và Hoa Kỳ chỉ có thể đồng ý là trong nội bộ Iraq, phe Shia sẽ chiếm thế mạnh. Mạnh như thế nào là điều còn bàn cãi, và thi hành qua hiến pháp, luật lệ và chánh sách, tức là còn lâu mới ngã ngũ.

Tuy nhiên, sự tắc nghẽn của chuyện đàm phán có thể không xuất phát từ yêu cầu số bốn ấy mà từ một đòi hỏi khác của Tehran: phải cùng thảo luận hai hồ sơ là Iraq và võ khí hạch tâm của Iran. Lập trường của Hoa Kỳ là tách riêng hai chuyện. Iraq là vấn đề song phương giữa hai nước (với sự đồng ý của các nước Sunni lân bang, là điều Phó Tổng thống Dick Cheney muốn giải thích trong chuyến thăm viếng các nước này vào tuần qua). Kế hoạch hạch tâm của Iran là vấn đề đa phương, của Liên hiệp quốc - và cả ba nước Âu Châu ngoài Hoa Kỳ là Anh, Đức, Pháp.

Nếu Washington đạt thỏa thuận với Tehran về Iraq rồi, Hoa Kỳ sẽ có thế mạnh để vận động quốc tế gây áp lực và trừng phạt Tehran vì muốn chế tạo võ khí hạch tâm. Hiểu như vậy, các Giáo chủ Iran đòi lồng hai chuyện làm một để nhân khi Bush yếu thế thì giàng chuyện hạch tâm vào vòng đàm phán khiến Hoa Kỳ khó ép các nước kia trừng phạt Iran.

Quốc hội Mỹ không thèm hiểu vậy nên vừa đòi Hành pháp rút quân vừa bẻ gãy một đòn bẩy trong tay Tổng thống về chuyện ngăn ngừa Iran chế tạo võ khí hạch tâm. Đâm ra chính là sự suy nhược thần kinh của đảng Dân chủ mới khiến Hoa Kỳ chưa thể đàm phán với Tehran như nhiều lãnh tụ Dân chủ đòi hỏi. Và Tổng thống Mỹ vào năm 2009 sẽ phải xử lý chuyện hạch tâm này, có khi quá trễ vì nếu Tehran mà có võ khí tàn sát tuyệt đối này, Saudi Arabia cũng chẳng ngồi yên, và Israel sẽ động thủ!

Dù mới chỉ điểm sơ về ý muốn và yêu cầu đôi bên, người ta đã có thể thấy rằng Iran và Hoa Kỳ thật ra có nhiều quan điểm tương đồng. Hai trở ngại chính có thể khiến việc đàm phán kéo dài mà Iraq vẫn chưa ổn định là khủng bố Al Qaeda và... Quốc hội Mỹ. Đó là cái giá phải trả cho nền dân chủ và cho các chính khách vốn coi chuyện tranh cử là chính.

Thắng Mỹ không khó, dù là ngoài chiến trường hay trên bàn đàm phán. Đàm phán Paris cho "hòa bình" Việt Nam là một thí dụ mà người Mỹ đã quên - mà nhiều người Việt vẫn còn nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.