- Đối với nhiều người trong chúng ta, vấn đề lao động Việt Nam xem chừng khá xa vời đối với cuộc sống của chúng ta ở hải ngoại. Vì nói đến lao động, ta thường nghĩ đến lao động chân tay, lao động ngoài đồng ruộng, lao động trên các công trường hay trong các công xưởng trong khi phần lớn người Việt hải ngoại lại làm việc trong các công sở hay các ngành dịch vụ, cần nhiều trí óc hơn là bắp thịt, ít dầm mưa giãi nắng, không mấy khi bị tai nạn dứt tay đứt chân như những loại lao động nói trên. Các rủi ro lao động của chúng ta, như hít thán khí hay các hóa chất độc, cũng tương đối ít.
Cả nghìn cuộc đình công
Có lẽ vì thế mà cả ngàn cuộc đình công của lao động Việt Nam trong những năm qua, có lúc lên đến vài chục nghìn người hay cả trăm nghìn người lãn công trong cùng một thời gian trên toàn quốc (như vào cuối năm 2005 hay đầu năm 2006), đã không được chú ý đúng mức. Phần vì luật lao động ở trong nước chỉ cho phép đình công trong khuôn khổ từng đơn vị sản xuất một nên người ngoài hay ngay cả báo chí cũng khó đi vào để mà nghiên cứu hay làm tin. Mà một khi dư luận thờ ơ thì những tình cảnh như công nhân bị bóc lột, bị ức hiếp làm việc quá giờ quá tải quá sức, không được trả tiền phụ trội hoặc không được bảo đảm sức khỏe, không được bảo vệ khi gặp tai nạn trong công việc, v.v. nhất là trong các hãng xưởng có đầu tư của nước ngoài, sẽ tiếp tục dài dài vì nhà nước ngó lơ nhằm mua chuộc, cầm chân những người chủ đầu tư nước ngoài.
Chỉ cần nêu một vài thí dụ là ta hiểu ngay: Nếu năm 1999 lương công nhân trong các hãng xưởng đầu tư nước ngoài là ở mức 50-55 đô-la Mỹ một tháng thì sáu năm sau, mức đó lại xuống còn có khoảng 45 đô-la trung-bình, bất kể mức lạm phát từ năm này qua năm khác. Không những thế, chính quyền Hà Nội lại còn ăn gian bằng cách tính hối suất của đồng đô-la ở mức thấp (khoảng 13.500 tới 14.000 đồng ăn một đô-la) chứ không chịu theo thời giá (bây giờ đã khoảng 15.800 đồng một đô-la). Tiền đô-la (do các nhà đầu tư ngoại quốc đóng) thì Nhà nước lấy, các công nhân thì chỉ được trả số tiền gọi là tương đương bằng tiền Việt Nam nên không lạ là trong nửa năm sau của năm 2005 và đầu năm 2006, đã có hàng mấy trăm vụ đình công trên toàn quốc, chủ yếu là để đòi tăng lương. Cuối cùng thì Hà Nội cũng đã phải nhượng bộ, chịu tăng mức lương căn bản lên đôi chút nhưng lại chính Hà Nội không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trả theo mức lương mới, cố làm trì hoãn việc thực thi tăng lương này.
Trong khung cảnh ấy liệu có nên lấy làm lạ là đôi khi bất chấp sự cấm đoán, nhiều công nhân Việt Nam đã vượt ra ngoài khuôn khổ cho phép, đi biểu tình ngoài khuôn viên của các công xưởng nơi mình làm việc để thành những cuộc biểu dương lực lượng khổng lồ đi ngoài thành phố" Công an CS đã khéo be bờ những cuộc biểu tình này để không thành bạo động trên một qui mô lớn nhưng liệu tình trạng này sẽ kéo dài được bao lâu" Nhất là khi ta biết các công nhân trong các hãng xưởng của ngoại quốc (Đài Loan, Đại-Hàn, Mã Lai, Xinh-ga-po v.v.) là thuộc các thành phần trẻ, còn khỏe, ít ốm đau, đầy nghị lực nên mới được mức lương cao chứ còn đa phần các công nhân làm trong các hãng xưởng Việt Nam, kể cả các xí nghiệp quốc doanh, thì lương chỉ được khoảng tương đương với 30-35 Mỹ kim mà thôi.
Chính vì Hà Nội không có đủ khả năng tạo công ăn việc làm mới nên tình trạng trên chỉ có thể ngày một tệ hơn. Do vậy mà năm ngoái, bà Cù Thị Hậu, một ủy viên Trung ương Đảng CSVN và người đã lâu năm cầm đầu Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, đã phải thốt lên: "Có hơn 1000 cuộc đình công mà theo luật hiện hành thì không có cuộc nào được xem là hợp pháp cả." Bà do đó kêu gọi phải mau mau đổi luật lệ lao động Việt Nam nếu còn muốn cho nó hợp thời, bắt kịp với tình hình thực tế. Ra trước Quốc Hội ngay vào thời gian Hội nghị Vác-sa-va 2006 về Quyền của Công Nhân Việt Nam nhóm họp ở Ba Lan (28 đến 30 tháng 10, 2006), bà còn nhắc nhở là nếu Việt Nam không mau sửa đổi luật lao động và đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của tình thế thì sẽ có những "công đoàn độc lập" ra đời để cạnh tranh với Tổng Liên Đoàn. Vì phát biểu như vậy nên chỉ ít tháng sau, bà đã bị bay chức và thay thế.
Lao động xuất khẩu
Cũng chính vì Hà Nội không đủ khả năng tạo ra công ăn việc làm cho khoảng hơn một triệu người gia nhập lực lượng lao động hàng năm nên từ nhiều năm nay, Hà Nội đã phải có chương trình "xuất khẩu lao động" sang các nước lúc đầu còn sang các nước CS "anh em" (để trả nợ chiến tranh) hay ở gần nhà như Đài Loan, Mã Lai, Xinh-ga-po, rồi lần sang đến Đại-Hàn, các nước Trung-Đông (năm 1991 khi chiến tranh vùng Vịnh xảy ra, tự nhiên người ta mới khám phá ra là có tới 15 nghìn công nhân Việt Nam ở Iraq mà Mỹ đã phải bỏ tiền ra cho hồi hương bằng máy bay của hãng Hàng Không Ấn Độ vì Hà Nội kêu không có tiền đưa người về; cũng như gần đây, chiến tranh Do Thái-Hezbollah nổ ra ở Nam Li-băng, người ta mới biết là có một số người Việt Nam đi làm người ở hay làm thợ ở Li-băng cần được di tản về trong nước), giờ đây sang đến cả những nước như Mỹ, quê hương thứ hai của nhiều người trong chúng ta.
Cách đây vài tháng, đã có tin Hà Nội tính gởi tới 100 nghìn người, đa phần là phụ nữ, sang làm con vú hay người ở ở nước Á-rập Sao-u-đi trong vòng 1-2 nă-m. Đọc tin thì nghe hấp dẫn lắm vì bài báo (viết trong báo Á-rập Sao-u-đi) cho hay là những phụ nữ này sẽ được trả 150 đô-la một tháng (hơn 2 triệu đồng tính sang tiền Việt Nam) nhưng những người tính đút lót để được đi sang đây đâu biết đây là một trong những nước giàu nhất thế giới và trăm rưởi đối với các ông hoàng bà chúa ở xứ này thì chỉ là muối bỏ bể, họ có thể nuôi một lúc vài chục người mà vẫn có thể bắt làm quần quật ngày đêm.
Rồi lại gần đây, có tin là Hà Nội đã ký được hợp đồng với một vài công ty của Mỹ để đưa người lao động Việt Nam sang Mỹ ăn lương 5000 đô-la (vâng!) một tháng mà chỉ phải cắt cỏ trong các sân cù (golf clubs) hay đi hái cam. Thật là một tin quái dị đối với tất cả những ai như chúng ta, 1 triệu rưởi người Mỹ gốc Việt, chỉ thoáng nghe cũng biết là tin bịa đặt, thuộc loại "tin đểu." Đểu bởi đó là loại tin sẽ làm cho nhiều người điêu linh, ký cóp tiền nong, bán nhà bán cửa, bán vợ đợ con đi để đút lót các công ty làm loại dịch vụ này ở trong nước (mà phần lớn là của chính quyền) để ký quỹ, trả tiền dịch vụ, giấy tờ để mong được đi một nước thiên đường như vậy. Rồi tiền mất tật mang, hoặc là không sang được Mỹ (nghĩa là còn may) hoặc là sang được đến bên đây thì sẽ thành cảnh "đem con đi bỏ chợ" nghĩ a là bị vất ra đường phố, ngủ chợ ngủ cầu, đi ăn xin độ nhật cho qua ngày.
Tiền lệ không phải là không có. Cách đây 3 năm, vào năm 2004, khoảng 250 người công nhân Việt Nam, đa phần là phụ nữ, đã được đưa sang làm việc trong một hãng may mặc của một ông chủ Đại-Hàn ở Samoa thuộc Mỹ (American Samoa). Vụ này nổi tiếng vì hãng Daewoo này của người Đại-Hàn, sau khi bị đưa ra tòa đã bị phạt hàng triệu đô-la (và người chủ phải đi tù) cũng như Hà Nội bị phạt 3 triệu rưởi do việc đồng lõa trong vụ này. Sở dĩ vậy là vì một số người đã bị bắt làm việc quá sức trong những điều kiện rất tồi tệ, rồi bị đánh đập khi phản đối, có chị bị mất cả mắt. Nếu không có sự can thiệp của một số luật sư người Mỹ gốc Việt, và nhất là sự can thiệp của Ủy ban Cứu người vượt biển (Boat People S.O.S.) thì không biết câu chuyện còn đi về đâu nữa.
Nhưng nếu các công nhân ở American Samoa may mắn được can thiệp để ở lại Mỹ (và giờ đây đã được trở lại một đời sống bình thường) thì không có gì đảm bảo là hàng trăm, hàng nghìn người khác, nhất là ở những quốc gia nơi không có đông đảo một cộng đồng người Việt quốc gia, sẽ được cứu giúp tương tự. Trường hợp đó, ai sẽ là những người phải gánh vác trách nhiệm lo cho những người công nhân kiểu bị đem con đi bỏ chợ như thế này-nếu không phải là chính chúng ta"
Cách nào bảo vệ người lao động VN"
Chính vì những lý do trên mà chúng ta không thể thờ ơ trước tình cảnh của người lao động Việt Nam, dù ở trong cũng như ở ngoài nước. Một số các anh chị em trẻ trong nhóm VietACT đã đứng ra gây quỹ, vận động, lên tiếng để bênh vực những phụ nữ Việt Nam bị đem sang Đài Loan hay Căm-pu-chia, Xinh-ga-po, Mã Lai "bán trên Internet," hay thành nô lệ tình dục, thậm chí còn bị đưa cả vào các thanh lâu (như ở Thái Lan). Đây là một việc làm rất quý, nói lên sự đồng cảm của người phụ nữ Việt Nam ở hải ngoại (nhất là ở Mỹ) với các phụ nữ Việt Nam xấu số kia.
Nhưng ngoài những phụ nữ kia, đã có ai lo cho các lao động xuất khẩu của Việt Nam khi gặp nạn chưa" Ta không thể trông chờ được gì ở các sứ quán của Hà Nội tại các nước, vì vậy nên mới có Hội Nghị Vác-sa-va 2006 về Quyền của Công Nhân Việt Nam. Sự thăm viếng của hai ông Trần Ngọc Thành, chủ-tịch, và Chojecki, cố vấn, Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam, sang Hoa Kỳ tuần này, do đó, phải được coi là một mốc rất đáng kể trong bước đường tranh đấu cho người lao động Việt Nam, cả ở trong lẫn ở ngoài nước. Với những ai có lòng, Quý Vị có thể vào trang nhà www.baovelaodong.comđể xem những vấn đề và luật lệ liên quan đến lao động Việt Nam. Ở trong trang nhà này cũng có phần chỉ dẫn cách nào chúng ta có thể tham gia vào việc bảo vệ người lao động VN cũng như cách đóng góp tài chánh, kẻ ít người nhiều, cho công cuộc dài hơi và to lớn này.