Hôm nay,  

President's Day: Ngày Tổng Thống Hoa Kỳ

14/02/200900:00:00(Xem: 4922)
PRESIDENT's DAY: NGÀY TỔNG THỐNG HOA KỲ
Giao Chỉ San Jose
Tị nạn Việt hy vọng tương lai một tổng thống Việt Nam da vàng.
Tình tự dân tộc ở đâu"
Bài này viết nhân ngày President tại nước Mỹ, nhưng xin kèm đến quý độc giả một câu hỏi: Tổng thống Hoa Kỳ có phải là tổng thống của chúng ta hay không. Chúng ta đây là người Việt mang quốc tịch Hoa Kỳ. Trên pháp lý thì đúng đấy, nhưng trên thực tế thì dân ta có vẻ lạnh lùng hờ hững lắm. Như vậy có vẻ bất công với đất nước mà chúng ta đã hưởng phúc lợi khá nhiều.
Vẫn còn nhớ khởi đi từ cuối thập niên 70, anh em gặp nhau trên con đường xuôi ngược tìm nơi định cư. Tay bắt mặt mừng, hỏi rằng bây giờ bạn làm gì ở đâu. Câu trả lời nhẹ nhàng lý thú: trước làm hãng Ford, mới đây thì lãnh lương Carter. Check Carter lãnh đủ 4 năm, rồi qua làm việc với tổng thống Reagan. Cho đến bây giờ có nhiều bạn cao niên chúng tôi sắp sửa lãnh tiền già của vị Tổng thống mới mà vẫn quen mồm gọi là thằng Obama. Hết sức là tự do dân chủ.
Dân ta ở Mỹ đã 10, 20 hay thậm chí 30 năm. Đã đứng lên nghe đọc lời thề vào quốc tịch. Vui vẻ giơ tay thề bỏ hết những giây mơ rễ má với quê hương cũ, sẽ một lòng cầm súng chiến đấu cho Tổ Quốc mới, nhưng thật sự tấm lòng không hề rung động với Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ.
"Lòng quê gởi áng mây Tần xa xa."
Người thì làm ăn cật lực để gởi tiền về quê. Mua đất, cất nhà. Người thì đi về như đi chợ. Người thì đốt lửa, thổi gió đấu tranh về quê hương. Hết năm này qua năm khác. Bao nhiêu là đám cưới, bao nhiêu lần khai sinh, bao nhiêu đám ma. Ở trên miền đất đầy cơ hội đã hơn một phần ba thế kỷ mà sao vẫn mang tâm trạng lưu đầy, mãi mãi làm người lưu vong trong hoàn cảnh tạm dung.
Bài học lịch sử và tình tự dành cho Tổ Quốc mới, khi thi xong nhập tịch là buông xuôi hết. Như vậy, phải chăng chúng ta đối xử với nước Mỹ dường như không phải đạo.
Kể từ năm 75 cho đến nay là năm hai không lẻ chín. Qua năm tới 2010 là 35 năm dâu bể. Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải dành cho cái đất nước tử tế này một chút tình dân tộc mới.
Xin vui lòng đọc bài viết về ngày President's Day với mối chân tình.
Xin đọc lại bài học quốc tịch bằng tấm lòng thành.
President's Day:
Đây là ghi dấu lịch sử đầu tiên dành cho vị tổng thống thứ nhất George Washington. Ông là vị khai quốc công thần, là cha già dân tộc, là quốc phụ của Hoa Kỳ. Vị tướng chỉ huy cuộc tranh cách mạng chống Anh quốc. Thành lập Hiệp chủng Quốc và lên làm tổng thống 2 nhiệm kỳ.
Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1796. Vì vậy President's Day cũng gọi là Washington's Birthday.
Sau đó người ta cũng ghép chung vào ngày lịch này để kỷ niệm thêm ngày sinh nhật của vị tổng thống thứ 16 là Abraham Lincoln. Ông sinh ngày 12 tháng 2-1809
Cho đến nay ngày President trở thành ngày quốc lễ và nước Mỹ chọn ngày Thứ hai của tháng Hai, nằm giữa sinh nhật của hai vị tổng thống vĩ đại. Một người lãnh đạo kháng chiến thành lập quốc gia. Một người chiến thắng cuộc nội chiến, thống nhất đất nước.
Nếu hỏi rằng, ngoài hai vị kể trên trong tất cả 44 vị tổng thống Hoa Kỳ suốt 220 năm qua thì còn có tổng thống nào xếp hạng cao trong lịch sử. Hoa Kỳ có ngay câu trả lời.
Các tổng thống vĩ đại của nước Mỹ.
Câu trả lời không phải bằng văn bản mà bằng cả 1 công viên quốc gia. Không phải là vườn cảnh, tượng đài mà bằng núi đá.
Tại tiểu bang South Dakota có hình tượng khắc trên đá. Các hình tượng vĩ đại của 4 ông tổng thống vĩ đại.
Trái núi chiếm diện tích 1,300 mẫu tây, với tượng đài cao 60 bộ nằm trên khu đất cao 5,700 feet trên mặt biển. Từ trái qua phải là hình tổng thống Washington , Jefferson, Roosevelt, và Lincoln .
Tổng thống Jefferson là người nhậm chức thứ ba, nhưng là cha đẻ của bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ.
Ông đã viết ra những câu bất hủ trong các bản văn lịch sử để làm khuôn vàng thước ngọc cho đời đời. Đó là câu: Con người sinh ra bình đẳng và ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc.
Vị sau cùng là tổng thống Roosevelt , người đã lãnh đạo nước Mỹ khi nhân loại bước vào thế kỷ 19. Tượng đài khắc trên núi Rushmore là công trình thực hiện cha truyền con nối của gia đình điêu khắc gia Borglum. Ngày nay có hai triệu du khách đến thăm hàng năm.
Tinh hoa của dân chủ:
Với hơn 220 năm lập quốc, nền dân chủ của Hoa Kỳ không một lần nào thay đổi người lãnh đạo mà có rối loạn binh đao. Hoàn toàn không có đảo chính, cách mạng, binh biến. Ngay cả những lúc chiến tranh sóng gió hay lúc các vị tổng thống bị truất phế, từ chức thì việc thay đổi cũng tuần tự theo luật lệ hoàn tất rất nhẹ nhàng và an toàn tuyệt dối.
     Theo hiến định, khi vị tổng thống tại chức qua đời hay từ chức thì ông phó lên thay. Nếu không có phó tổng thống hay vì lý do gì, ông phó không lên thay thì người thứ ba là chủ tịch hạ viện và kế tiếp là bộ trưởng ngoại giao. Trong thể chế dân chủ, quyền hạn do các chính trị gia nắm giữ nên vai trò bộ trưởng quốc phòng và tham mưu trưởng liên quân thuộc phe quân sự không nằm trong danh sách được giao quyền lãnh đạo đất nước.
Trong hoàn cảnh thuộc về đợt di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 20, nếu chúng ta tìm hiểu về cuộc đời của tất cả 44 vị tổng thống Hoa Kỳ sẽ tìm thấy rất nhiều chi tiết lý thú.
Tuy nhiên, nói đến mối giao tình Việt Mỹ phải kể lại câu chuyện sử liệu từ thời tổng thống thứ 18 của Hiệp Chủng Quốc là ông Grant vào năm 1869.
Việt sử ghi lại rằng vào năm 1870, ông Bùi Viện gốc làng Trình Phố, tỉnh Thái Bình dưới triều Tự Đức được cử đi sứ qua Hồng Kông rồi nhân dịp này theo tàu viễn dương qua Hoa kỳ vào triều đại Tổng thống Ulysses Grant. Tổng thống Mỹ tiếp kiến hứa hẹn viện trợ cho Việt Nam canh tân. Ông Bùi Viện về nước trình lên kết quả và lại trở lại Mỹ quốc lần thứ hai. Tuy nhiên, kỳ này Hoa Kỳ lại đổi ý nên việc viện trợ không thành.
Dù sao thì đây cũng là một ghi dấu về những ngày bang giao Việt Mỹ đầu tiên.

Nhưng suốt một trăm năm từ thời kỳ1850 đến 1950 miền Đông Nam Á vẫn trong vòng ảnh hưởng của Pháp nên Việt Nam không có cơ hội liên hệ với Hoa Kỳ. Cho đến năm 1975, cựu đại sứ Bùi Diễm, thuộc giòng họ Bùi Viện, đại diện Việt Nam Cộng Hòa lại thất bại trong lần xin viện trợ cuối cùng.
Tổng thống Hoa Kỳ và chiến tranh Việt nam.
Cho đến thời kỳ 1954 của tổng thống thứ 34 là ông Eisenhower, Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc.
Vào cuối thập niên 50, trong chuyến đi Mỹ, chúng ta thấy hình ảnh ông Eisenhower đón chào tổng thống Ngô Đình Diệm và ca ngợi vị nguyên thủ Việt Nam là vĩ nhân của Đông Nam Á.
Và chẳng bao lâu sau đó, vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ là ông Kennedy đã gián tiếp trách nhiệm về cuộc đảo chánh và hạ sát anh em ông Diệm năm 1963 tại Sài Gòn. Ông Kennedy tuy giải tỏa được một chế độ cản đường nhưng cũng rất ân hận về cái chết của ông Diệm. Cả hai ông Ngô Đình Diệm và Kennedy đều là Thiên Chúa Giáo.
Nhưng niềm ân hận cũng không lâu, chỉ sau một thời gian ngắn đến lượt ông Kennedy bị ám sát chết tại Dallas , Texas .
Cái chết của cả hai vị tổng thống đều vẫn còn nhiều bí ẩn cho đến ngày nay. Ông Johnson lên thay trong vai trò tổng thống thứ 36 với gánh nặng chiến tranh Việt Nam . Ông là người quyết tâm nhưng vẫn không thành công và để cho ông Nixon lên thay với chiêu bài Việt Nam hóa chiến tranh, rút quân về bằng mọi giá.
Năm 1974, Nixon, vị tổng thống thứ 37 vì Watergate phải từ chức. Ông Gerald Ford thứ 38 lên thay, thể theo lòng dân và quốc hội, quay lưng cuộc chiến tranh Việt Nam . Từ nay đối với Hoa Kỳ, Việt Nam chỉ còn là vấn đề nhân đạo. (Evacuation 75)
Với 5 vị tổng thống can dự vào chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford, người Mỹ gọi đây là The War of the
 Presidents. Ý nói là cuộc chiến riêng tư của các vị tổng thống, không can dự gì vào nước Mỹ và dân Mỹ. Làn sóng chống chiến tranh của dân Mỹ dâng cao với các cuộc xuống đường hàng triệu người.
Bây giờ sống tại đây chúng ta mới có thể hiểu được là lòng dân của Mỹ quốc thực sự ảnh hưởng đến chính quyền ra sao. Không cần đúng hay sai, không cần giữ lời cam kết. Đối với dân chúng Hoa Kỳ, lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng, hy sinh rất giới hạn. Đánh không xong thì rút, sống chết mặc bay. Từ các quan niệm đó, định mệnh đưa chúng ta đến Hoa Kỳ.
Tổng thống Hoa Kỳ và dân tỵ nạn Việt Nam .
Sau ông Ford, dân tỵ nạn lần lượt sống với 5 vị tổng thống của thời hậu chiến. Bắt đầu từ ông Carter, tổng thống thứ 39, ông già hiền lành đạo đức chính là vị ân nhân đầu tiên mở cửa nước Mỹ cho thuyền nhân từ các trại tỵ nạn vào Hoa Kỳ.
Khi đoàn biểu tình Việt Nam thắp nến đi trước Bạch Cung để than khóc cho thuyền nhân thì ông Carter đã mở cửa ban công ngó xuống vẫy tay chào. Nước mắt dân tỵ nạn Việt Nam di tản đợt đầu, nhỏ giọt xuống đại lộ Constitution đã làm động lòng ông tổng thống chuyên cất nhà Homeless.
Lệnh tổng thống ban ra từ đây các tàu chiến của hạm đội số Bảy bắt đầu xua đuổi hải tặc và vớt người di tản. Các phái đoàn Mỹ lên đường đến phỏng vấn tại trại tỵ nạn Đông Nam Á.
Rồi tiếp đến ông thứ 40 là Reagan suốt 8 năm đưa ra các đạo luật tỵ nạn, khởi sự các buổi thảo luận thả tù, để sau này ông Bush số 41 tiếp tục mở rộng tấm lòng nhân đạo.
Bước qua thập niên 90, triều đại Bill Clinton, tổng thống thứ 42 là thời kỳ của hòa giải và hàn gắn. Clinton mở đường hiệp thương, giải tỏa cấm vận, đưa tay dắt đường cho Hà Nội trở về với thế giới tự do. Sau cùng ông Clinton chấm dứt nhiệm kỳ bằng một chuyến công du cuối cùng dưới hình thức qua Việt Nam để trình diễn một màn Workshop dân chủ đi từ Hà Nội đến Sài Gòn.
Qua đến ông Bush hiện nay, vị tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ đã đem bài học Việt Nam ra để đánh trận Trung Đông, nhưng đã gặp nhiều cay đắng. Bây giờ đến lượt tổng thống Obama, với hoàn cảnh thế
giới điên đảo, nợ nần chồng chất, ông có quá nhiều mối bận tâm. Hồ sơ Việt Nam và hồ sơ di dân tỵ nạn sẽ còn lâu mới đem ra thảo luận.
*   *   *
Xem như vậy, lịch sử cận đại của Hoa Kỳ từ 1954 đến nay có 11 vị tổng thống. Năm vị tham dự vào cuộc chiến Việt Nam . Ba triệu lính lần lượt tham chiến. 58 ngàn người chết. Mỗi vị tổng thống khi nhắc đến Việt Nam đều mang một kỷ niệm cay đắng khôn nguôi.
Kể từ 1975 đến nay, 5 vị tổng thống liên quan đến dân Việt Nam hậu chiến, qua các lãnh vực di dân tỵ nạn và nhân đạo. Cả 5 người đã mang một quan niệm mới mẻ về hai chữ Việt Nam . Đã bớt phần đau thương cay đắng. Trong những năm gần đây, sự thành công của người Việt tại Hoa Kỳ trong tất cả các lãnh vực đã đem đến cho các ứng cử viên tổng thống một ý niệm mới mẻ tốt đẹp của chúng ta tại quê hương mới. Riêng tổng thống Obama, trong bài diễn văn nhậm chức đã nhắc đến Việt Nam qua trận Khe Sanh.
Bây giờ sẽ đến lượt con cháu chúng ta sẽ làm quen với vị tổng thống da mầu đầu tiên thứ 44 với niềm tự hào của một thế hệ di dân gốc Việt góp phần xây dựng đầy hưng phấn trong tương lai. Biết đâu sẽ có ngày Hoa kỳ chào mừng một tổng thống Việt Nam da vàng. Mặc dù ngày đó có thể còn rất xa, nhưng bây giờ xin vui lòng nhận chấp nhận tổng thống của chúng ta. Trong niềm tin mới, chúng ta cùng đón ngày President's Day 2009 của Hoa Kỳ.
Dù rằng nghĩa trang Việt Nam tại Los Gatos có treo đôi câu đối: "Trăm năm xác tục gửi quê người, Vạn dặm hồn thiêng về cố quốc." Tôi cũng chẳng biết còn nhớ đúng hay sai, nhưng xin nhắc lại hai bài học trăm năm của các di dân đến trước chúng ta. Một văn hào Nga đã nói rằng: "Nơi nào tôi sống có tự do, nơi đó chính là quê hương". Một chính khách Ba Lan tỵ nạn lại nói rằng: "Muốn đấu tranh hữu hiệu cho quê hương cũ, hãy làm một công dân tốt trên quê hương mới" Trong tinh thần đó, chúng ta chào mừng President's Day.
Giao Chỉ - San Jose

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.