Hôm nay,  

Hướng Tới Việc Sử Dụng ‘than Sạch’

26/01/200900:00:00(Xem: 9148)

Hướng Tới Việc sử Dụng ‘Than Sạch’

Mai Thanh Truyết
Than là một nguồn năng lượng thiên nhiên mà các quốc gia trên thế giới vẫn còn sử dụng với một tỷ lệ quan trọng so với tất cả các nguồn năng lượng khác. Mặc dù vẫn còn quá nhiều vấn nạn về ô nhiễm môi trường do kỹ nghệ than mang đến, thế giới vẫn xem đây là một nguồn năng lượng chính chưa thể thay thế được, ít nhất trong vòng 20 năm tới. Tại Hoa Kỳ, quốc gia đã có kỹ thuật cao độ, đã đem vào áp dụng năng lượng nguyên tử, dầu hỏa, năng lượng tái tạo, nhưng năng lượng do than cung cấp vẫn chiếm hàng đầu với 52% trên tổng số nhu cầu năng lượng toàn quốc.
Than là một loại nguyên liệu dễ khai thác về kỹ thuật và rẻ về giá thành nhất so với tất cả các nguồn nguyên liệu khác. Công nghệ than ở Hoa Kỳ hàng năm lên đến 350 tỷ Mỹ kim với trên 75.000 mõ than đang được khai thác. Sản lượng hàng năm là 1 tỷ tấn cho năm 2003, tăng lên 1,2 tỷ năm 2004, và 1,4 tấn năm 2006. Trử lượng than của nước nầy có thể xài trong vòng 250 năm nữa.
Về phía Trung Quốc, mức sản xuất than là 1,2 tỷ tấn năm 2002.
Trở qua Việt Nam, than cũng là một nguồn năng lượng chiến lược. Năm 2004, Việt Nam dự định sản xuất 19,4 triệu tấn và dự kiến xuất cảng 6 triệu tấn. Theo lời ông Đoàn Văn Kiên, Tổng giám đốc công ty than Vinacoal, nhu cầu cho 5 năm sắp tới là sẽ sản xuất từ 33 đến 36 triệu tấn than, trong đó có 10 triệu tấn dùng cho xuất cảng.
Vấn nạn ô nhiễm do công nghệ than
Tại Hoa Kỳ, công nghệ than đã dự phần quan trọng hàng đầu vào việc ô nhiễm môi trường như: thải hồi 60% lượng khí sulfur dioxide (SO2), 33% lượng thủy ngân, 25% Nitrogen monoxide (NOx), và 33% thán khí (CO2) trên tổng số ô nhiễm không khí toàn quốc. Do đó, dù có những thuận lợi về kinh tế trong kỹ nghệ năng lượng, than đã tạo ra một khối lượng khí thải khỗng lồ, hũy diệt cả vùng cảnh quan chung quanh các nhà máy sản xuất than, ô nhiễm ao hồ, nguồn nước và không khí..
Riêng tại Việt Nam, than đã biến vùng khai thác chính là Quảng Ninh thành một thị trấn đen. Theo Hải học Viện Nha Trang, có thể có đến 50% san hô vùng Hạ long bị chết “ngộp” vì bị than bám vào trầm tích dưới biển san hô của vùng nầy.
Tuy nhiên, để đổi lại, than là một nguồn năng lượng dễ tìm, dễ đốt, và có mặt ở hầu hết khắp nơi. Do đó, vấn đề còn lại là làm thế nào để biến công nghệ than thành một nguồn năng lượng sạch trước khi chuyển đổi qua việc ứng dụng các nguồn năng lượng khác.
Hướng giải quyết
Có hai phương pháp để chuyển đổi than thành một công nghệ sạch đúng theo tinh thần của Hóa học Xanh:
*1- Xây dựng hệ thống thu hồi khí thải sulfur oxide và thán khí. Theo ước tính, nếu các nhà máy than ở tiểu bang Chicago có lắp đặt hệ thống nầy thì số tử vong hàng năm liên quan đến than sẽ giảm từ 400 xuống còn 100.
*2- Áp dụng quy trình sản xuất năng lượng mới từ than hoàn toàn không có khí thải hồi như SO2, NOx, và CO2. Đó là công nghệ biến than thành khí tạo ra điện (integrated gasification combined-cycle technology – IGCC).
Nhà máy loại nầy có khả năng như một nhà máy hóa chất hơn là nhà máy biến than thành năng lượng. Hoa Kỳ và một số quốc gia Tây phương đã thành công trong việc chuyển đổi nầy. Trên thế giới hiện có khoảng 400 nhà máy đang hoạt động và không gây ô nhiễm môi trường.
Nguyên tắc của việc dùng than “sạch” là: Than tác dụng với hơi nước và oxy ở nhiệt độ và áp suất cao. Phản ứng tổng hợp sẽ cho ra Hydrogen cùng với Carbon monoxide (CO), khí Methane (CH4), và thán khí (CO2). Các phụ phẩm rắn sẽ được loại trừ bằng phượng pháp gạn lọc. Sau cùng, tổng hợp các khí kễ trên sẽ biến thành năng lượng để chạy các turbine, và từ đó cho ra điện năng. Do đó sẽ không còn ô nhiễm không khí khi áp dụng phương pháp nầy. Theo ước tính chi phí xây dựng một nhà máy điện dựa theo phương pháp nầy tốn 1.200 Mỹ kim/KW so với 1.000 Mỹ kim/KW nếu xây dựng một nhà máy điện từ than theo phương pháp cổ điển.
Giá thành điện năng của phương pháp mới sẽ gấp đôi so với phương pháp cũ là 40 Mỹ kim/MW-giờ so với 20$/MW-giờ. Đây cũng là cái giá phải trả cho việc ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Sau đây là một thí dụ điển hình về chi phí y tế công cộng do ô nhiễm môi trường không khí ở Trung Quốc. Mới đây, TQ vừa công bố rằng hàng năm phải tiêu tốn 6% ngân sách quốc gia để giải quyết các chi phí y tế công cộng đặc biệt là các chứng bịnh về đường hô hấp và mắt gây ra do việc ô nhiễm không khí và nguồn nước. Mức tăng trưởng kinh tế quốc gia của TQ là 8% hàng năm, như vậy cho chúng ta thấy chi phí trên chiếm vị trí rất quan trọng trong ngân sách quốc gia của nước nầy.


Tình trạng công nghệ than ở Việt Nam
Việt Nam đã có một đại công ty quốc doanh than VINACOAL tại Quảng Ninh. Nơi đây vừa khai thác mõ than lộ thiên cũng như nằm sâu trong lòng đất. Dự kiến khai thác 23-24 triệu tấn than cho năm 2010, và 30 triệu tấn năm 2020. Từ năm 2004, Việt Nam đã dành một ngân khoản 930 triệu Mỹ kim cho các mục tiêu sau đây:
• Tăng cường an toàn lao động;
• Quản lý sản xuất hiệu quả hơn;
• Tân trang và hiện đại hóa kỹ thuật trong dây chuyền sàn lọc và biến chế;
• Và sau cùng hạn chế ô nhiễm môi trường.
Công ty, trong năm 2003, đã chi tiêu 116 triệu Mỹ kim cho việc mở thêm các hầm mõ mới cùng các mõ lộ thiên cũng như nhập cảng dụng cụ đào xới và hệ thống dây chuyền tự động.
Câu hỏi được đặt ra là đối với một ngân sách to lớn cho việc cải tiến kỹ thuật trong công nghệ than ở Việt Nam, tình trạng ô nhiễm và hiệu quả kinh tế của công nghệ nầy có sáng sủa hơn  trước kia không"
Đối với các quốc gia Tây phương, tuyệt đại đa số than sản xuất đều được xử dụng trong việc biến thành điện năng. Còn một tỷ lệ rất nhỏ dùng để sưởi và nấu nướng ngoài trời. Do đó, mức tiêu thụ và sản xuất than hầu như được quân bình theo mức cung – cầu.
Đối với trường hợp Việt Nam, tình trạnh hoàn toàn trái ngược. Tỷ lệ than sản xuất được dùng cho việc nấu nướng chiếm phần lớn, một phần cho kỹ nghệ điện, và một phần cho xuất cảng. Chỉ nội trong hai tháng đầu năm 2004, Việt Nam đã xuất cảng 1,5 triệu tấn than. Do đó nhiều khi mức tiêu thụ không theo kịp mức sản xuất dây chuyền. Chỉ cần một biến động nhỏ có thể làm xáo trộn cả công ty. Trường hợp đã xảy ra vào năm 2002. Không rõ vì lý do gì, tất cả các kho chứa than đều bị tràn ngập, do đó than bị ối động với một số lượng khổng lồ, và công nhân trrong thời gian nầy lại phải nhận lãnh số lượng than tương đương với mức lương hàng tháng! Về mặt ô nhiễm, cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa thấy có một cải thiện nào đáng kễ để hạn chế nạn ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, Công ty cũng đang có dự kiến xây dựng một mô hình nhà máy biến than thành điện năng như đã nói ở phân trên ở Nạ Dương, Cẩm Phá, An Hóa, và Sơn Đông.
Vấn đề an toàn lao động ở Công ty than
Theo kinh nghiệm ở công ty than Pensylvania, hầu hết các công nhân ở đây, sau khi về hưu đếu bị bịnh “phổi đen” (black lung) (tỷ lệ hơn 60% bị nhiễm bịnh) và được chính phủ cưu mang trong những ngày còn lại của cuộc đời. Chúng tôi nhận thấy công nhân Việt Nam đặc biệt tại công ty than không được bảo vệ an toàn lao động đúng mức. Công nhân được yêu cầu sản xuất tối đa với số lương bổng khoảng 25 Mỹ kim/tháng, trong khi đó tình trạng sức khỏe của công nhân không được xem trọng. Tệ hại hơn nữa, lãnh đạo công ty lại chi tiêu cho các công tác giao tế một cách phung phí, những buổi “tiêu pha” của viên Giám đốc công ty ở thời điểm năm 2000 trong đó chi phí cho một buổi tiệc dăm ba người không dưới 2 hoặc 3 ngàn đô la!
Đề nghị gì cho công nghệ than ở Việt Nam.
Việc gia tăng sản xuất, việc tăng cường bảo đảm an toàn lao động cho công nhân, cũng như việc áp dụng quy trình sản xuất “sạch” để bão vệ môi trường là những việc làm cần thiết cho công nghệ than ở Việt Nam. Nhưng những điều kễ trên vẫn chưa đủ cho điều kiện hiện tại. Thiết nghĩ, Việt Nam cần phải tăng cường hơn nữa trong việc ứng dụng than vào việc biến thành điện năng. Thứ nhất, để tránh trường hợp than bị ối đọng. Thứ hai, có thể cung ứng nhu cầu cần thiết về điện năng, một nhu cầu không thể thiếu trong việc phát triển quốc gia trong giai đoạn hiện tại, hơn là xoay qua việc truy tìm nguồn năng lượng từ các đập thủy điện như Việt Nam cũng như dự tính xây lấp cnhững nhà máy điện nguyên tử ở Ninh Thuận sắp tới.
Trong buổi lể tuyên thệ, Tổng thống Obama đã long trọng cam kết sẽ tăng cường việc sản xuất năng lượng của Hoa Kỳ 50%, và sẽ đầu tư vào việc áp dụng công nghệ than sạch bằng phương pháp IGCC đã nói trên. Quyết định trên mới chính là một quyết định sáng suốt của một lãnh đạo do dân và vì dân.
Biết đến bao giờ Việt Nam mới có thể có được những quyết định sáng suốt tương tự như trên"
Mai Thanh Truyết
VAST- 1/2009

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đầu năm 70, bạn đồng minh Huê kỳ quyết định bỏ rơi VNCH, không thực hiện cam kết rút quân, Việt-nam hóa chiến tranh, mặc nhiên giao Miền nam cho Hà nội. Ngày 30/04/75, quân Bắt Việt tiến vào Sài gòn, ngỡ ngàng. Dân chúng hoảng loạn bỏ chạy. Nhưng 14 năm sau thất bại nhục nhã ở Việt nam, bức tường Bá-linh bổng sụp đổ, kéo theo cộng sản Liên xô xuống hố, giúp Huê kỳ kết thúc cuộc chiến tranh lạnh làm kẻ chiến thắng.
Người Mỹ nói “Nothing is certain but tax and death” (Không ai tránh khỏi thuế và chết). Thuế mang ý nghĩa đặc biệt vì lịch sử nước Mỹ được thành hình từ ngày dân chúng thuộc địa nổi loạn chống nhà nước bảo hộ Anh Hoàng với khẩu hiệu bất hủ “Taxation without representation is tyranny” (Bị đánh thuế mà không được có đại biểu là bạo quyền.) Cho nên mỗi kỳ bầu cử đều tranh luận gay gắt về thuế má – nhưng không chỉ là cải cọ vô bổ vì khi thành luật sẽ theo đó móc từ túi tiền của mỗi người dân nhiều hay ít.
Đảng cộng sản VN cũng “khởi nghiệp” với những tuyên ngôn và khẩu hiệu nghe (tử tế) tương tự. Họ hô hào chống lại áp bức, bất công, kỳ thị … Nhờ vậy, họ vận động được quần chúng - kể cả những thành phần thiểu số, “ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng” - nổi dậy “giành lấy chính quyền về tay nhân dân.” Chả phải vô cớ mà Cách Mạng Tháng Tám vẫn được mệnh danh là “Cuộc Khởi Nghĩa Của Những Người Tay Không.” Chỉ có điều đáng phàn nàn là sau khi “những người tay không” nắm được quyền bính trong tay thì họ (tức khắc) hành xử như một đám côn đồ, đối với tất cả mọi thành phần dân tộc
Người lính Mỹ, trong nhân dáng hiên ngang, với những bước chân chắc nịch, đôi mắt nhìn thẳng và kỹ thuật tác chiến tuyệt vời. Nhưng người lính Mỹ cũng có trái tim biết rung động, biết nhớ thương, biết đau khổ như bạn và tôi. Xin đừng “thần thánh hóa” hoặc đòi hỏi những điều mà người lính Mỹ không thể thực hiện được; vì người lính Mỹ còn phải chu toàn bổ phận đối với người hôn phối, gia đình và người thân. Xin hãy nghĩ đến những trái tim tan vỡ trong mỗi gia đình, khi một người lính Mỹ gục ngã!
Như vậy, tuy không công khai, nhưng Bà Harris có quan tâm đến nhân quyền, các quyền tự do và vai trò của các tổ chức Xã hội Dân sự ở Việt Nam, một việc mà đảng và nhà nước CSVN luôn luôn chống đối và đàn áp. Tuy nhiên, tất cả báo Việt Nam, kể cả những báo “ôn hòa” như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động và Người Lao Động đều không đăng lời tuyên bố chống Trung Hoa của Bà Phó Tổng thống Harris.
Sau hơn một năm vất vả phòng chống Covid và kể từ khi có thuốc tiêm ngừa, nước Mỹ đang trở lại bình thường trong những điều kiện mới. Việc đeo khẩu trang và giãn cách xã hội sẽ trở thành những nét sinh hoạt trong đời sống. Bắt buộc cũng có mà tự nguyện cũng có. Từ mùa xuân năm nay nhiều tiểu bang đã bỏ những giới hạn sinh hoạt vì Covid. Riêng California, nơi có nhiều hạn chế gắt gao nhất trong công tác phòng chống, giới hạn được bỏ từ ngày 15/6 vừa qua.
Dan Rather là nhà bình luận kỳ cựu trên hệ thống CBS và là một ký giả tên tuổi của làng truyền thông Hoa Kỳ trong nhiều thập niên. Cùng với Peter Jennings của ABC và Tom Brokaw của NBC, ông thuộc về nhóm "Big Three" đầy ảnh hưởng này của nước Mỹ. Ở tuổi 89 hiện nay, ông vẫn tiếp tục dự phần vào các hoạt động truyền thông một cách thông tuệ, luôn gởi ra những thông điệp đáng suy nghĩ và lan truyền cảm hứng đến hàng triệu khán-thính-độc giả đang luôn theo dõi các bài viết, những cuộc nói chuyện cùng các cuộc phỏng vấn, trò chuyện của ông với một vài nhân vật nổi tiếng.
Trong chiến lược “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Hoa Kỳ, Việt Nam là môt cưc tuy nhỏ nhưng quan trong trọng cô gắng tạo thế đa phương quyền lực (multipolarity) để phá thế đơn cưc (unipolarity) mà Trung Quốc muốn thực hiện đặt khu vực này dưới “luật chơi của Trung Quốc.” Cả đại sứ chỉ định của Hoa Kỳ Marc Evans Knapper, Bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd J. Austin, và có lẽ Phó Tổng Thống Kamala Harris, cũng đề cập đến triển vọng nâng tầm quan hệ Việt-Mỹ từ mức “đối tác toàn diện” lên mức “đối tác chiến lược.”
Đặc biệt, Singapore và Việt Nam có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Hoa Kỳ. Singapore là một trung tâm tài chính khu vực, nơi đặt trụ sở châu Á của các doanh nghiệp của Hoa Kỳ bao gồm Microsoft và Google. Việt Nam đang trở nên chủ yếu hơn đối với chuỗi cung ứng toàn cầu, bao gồm cả chuỗi cung ứng chất bán dẫn, khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp chuyển cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc.
Xem lại “nguyên tắc thứ ba” của chúng ta, thấy ngay một cái định nghĩa bảnh hơn nhiều: “Di động là liên tục tiến về vùng chân không hoặc có áp lực thấp hơn áp lực hiện tại đang bao quanh mình”. Rõ ràng, đầy đủ, hàm chứa tất cả những yếu tố vật lý gây ra chuyển động. Vậy thì, khỏi cần trông cậy vào ai. Trong vườn chiều nay, ta vừa nhâm nhi cà phê vừa làm một vài thí nghiệm giản dị, dễ như trò chơi con trẻ, để khám phá thêm một huyền bí của đất trời.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.