Hôm nay,  

Huế Trong Mắt Tôi (Tùy bút)

02/05/200800:00:00(Xem: 8815)

Mùa thu 1965, tôi đến Huế trong màu aó lính của một dịp đi công tác vơí  đoàn văn nghệ quân đội trung ương. Trong lịch trình công tác không tính đến Huế vì chủ yếu trong chuyến đi này là giúp vui cho lực lượng đồng minh taị Đà nẵng, Chu lai. Giờ chót họ xếp chúng tôi ghé bản doanh Sư  đoàn 1 để diễn cho lính mình.  Do không được sắp xếp trước,  đơn vị chủ nhà đem tuị tôi ra ...ngủ đò trên sông Hương. Huy động hơn chục con đò cho đoàn khoảng bốn mươi người, tụ về chỗ cây đa đường THĐ. Sau khi chia nhau chỗ ngủ, đò phaỉ thả ra giữa sông, sợ gần bến biết đâu ăn phaỉ lựu đạn của mấy anh nằm vùng.

Lúc này Huế đã nhiễm sắc thái của chiến tranh. Một đaị đơn vị của quân đội đóng bản doanh ngay trong thành nội gần khu Gia Hội là dấu hiệu Huế không còn là Huế của ngày xưa, âm vang của những ngày mà từ thuở học trò tôi  đã được nghe và đồng cảm vơí ‘tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ xương.”  Huế sẽ chịu thân phận đẩy đưa của vân nước mà người ta cứ lấy Huế làm địa bàn chiến lược, vơí chiêu bài mất Huế là mất tất cả, để từ đó Huế không còn tự thân là Huế nữa.

Được ngủ đò qua đêm trên sông Hương ở thời điểm này là một kỷ niệm khó quên, không phaỉ chỉ các nghệ sĩ trong đoàn  mà chính tôi, từ những ngày đọc thơ Hàn mặc Tử vẫn ao ước đến Huế để thưởng ngoạn cảnh sắc cố đô, để cảm nhận Huế của thơ, của nhạc, của giai nhân mà những văn nhân mặc khách những thập niên thanh bình  thuở trước đã dừng chân, ghé bến.

Đêm đã khuya, ngôì ở một đầu khoang cùng ông lái đò, tôi quyết định không ngủ, sẽ thức vơí dòng sông, một dòng sông không mang tầm vóc của sông Hồng, sông Cửu, mà chỉ e ấp, khiêm tốn “em xinh em bé tên là Hương Giang” nhưng đã hớp hồn bao chàng trai kẻ Nam người Bắc. Dù bị chia trí vì sự an ninh của đoàn, đang là mục tiêu nôỉ cho những miểng lựu đạn của kẻ thù dấu mặt, máu lãng mạn trong tôi vẫn thả hồn về những cảm xúc khơi laị từ những vần thơ của Nguyễn Bính trong thi phẩm, “Đêm sông Hương”.Trăng treo, nước bạc,  sương khuya, tiếng chuông chùa, tiếng gà gáy sáng, sóng vỗ mạn thuyền, gió se lạnh, vaì gịong hò buồn, bâng quơ  vẫn còn phảng phất y trang nét thơ của “mẫu” Huế xưa.

Sau một đêm trên thuyền, sáng trở về vơí thực tại, được điện thoaị gặp ông tư lệnh. Một cảm giác chóng mặt cứ đeo đuôỉ chân tôi, khiến lúc chào ông mà cứ như muốn té. Hỏi ra thì taị nằm trên thuyền suốt đêm, tròng trành theo sóng vỗ nên sáng dậy có cảm giác như vậy. May mà ông xếp chủ nhà thông cảm chứ không tưởng tôi say giữa ban ngày. Cũng trong cuộc gặp, ông tư lệnh hoỉ thăm tình hình  anh chị em trong đoàn, tôi cảm ơn nhã ý của ông đã cho chúng tôi ngủ đò. Ông tư lệnh trợn tròn con mắt, goị ngay chánh văn phòng  chỉ thị sắp xếp đoàn chúng tôi vào ngay thành nôị... vì lý do an ninh. Thông báo laị chuyện dời chỗ ngủ, cả đoàn đều tiếc huì huị.

Thế rồi bẵng đi mấy năm không có dịp trở lại Huế, thì tôi cùng mọi người, mọi gia đình, cả nước, cả thế giới đều bàng hoàng, đau xót về cuộc thảm sát Tết Mậu Thân. Xúc động nhất vẫn là những thước phim tường thuật về các mồ chôn tập thể với cách chết đủ kiểu của nạn nhân được chiếu đi chiếu lại trên màn hình khắp năm châu. Quả thật Huế Mậu Thân đã để lại những ấn tượng không thể nào phai về một tội ác chiến tranh nằm trong qui mô của cuộc chiến Nam Bắc tương tàn, bất kể thời điểm trùng hợp - một cách cố ý - vào những ngày thiêng liêng nhất của dân tộc. Cho nên mỗi khi nhắc đến “Giải khăn sô cho Huế” thì chỉ thấy lòng ray rứt, khôn nguôi và kỳ vọng một ngày không xa lịch sử sẽ trả lại sự công bằng cho những người đã bị đâp đầu bằng cuốc.

Ba năm sau Mậu thân, tôi tháp tùng phái đoàn báo chí ra Huế dự lễ mừng chiến thắng Chiến dịch Lam Sơn 719, một caí tên đặt cho một chiến dịch lớn đánh qua Hạ Lào, nhằm giải tỏa áp lực đè nặng lên chiến trường Trị Thiên. Dù Mỹ đang tham chiến tại Việt nam, nhưng họ để hai người anh em cùng mẹ khác cha quần thảo nhau trong vùng rừng già biên giới giáp Tchepone. Cuộc thư hùng với những trận đánh có thể ghi vào quân sử và nếu được Phan nhật Nam tường thuật thì chiến dịch này chẳng thể bị lãng quên.Thuận lợi chiến lược có nghiêng về bờ nam Bến Hải, nhưng tổn thất nhân mạng thì trả giá quá đắt cho cả hai “anh em”. Lần đầu tiên một đại tá Dù, coi cả một lữ đoàn, bị bắt làm tù binh. (ông là “thần tượng” của tôi và những người lính sau này bị đem ra Bắc, tù gần hai chục năm). Khăn sô lại phủ lên đầu vợ lính mà mũi dùi nặng nhất là Sư đoàn 1 với đa phần binh sĩ là những người con yêu tuyển mộ từ dải đất Trị Thiên.

Tôi lại được một người bạn là bác sĩ quân y ở quân y viện NTP  chở quanh thành nội Huế   chứng kiến thêm cảnh “tuyết trắng giữa mùa hè” trong các trại gia binh. Các ký giả, phóng viên chỉ dự lễ. Các vị chóp bu sau đó về thẳng Saì gòn. Huy chương nào cũng có hai mặt. Lần này đến vơí Huế vừa gấp gáp vừa đượm buồn, sáng đến chiều đi, nên cảm xúc bâng khuâng  khó tả.

Chưa được ngơi nghỉ sau mùa hè đỏ lửa, Huế laị trở thành điểm nóng sau hiệp định Paris. Được lệnh từ Phủ đầu rồng, những đơn vị thiện chiến nhất của quân đội miền nam mà năm 74 là năm cao điểm, được lệnh điều về Huế vơí sứ mạng quyết giữ Huế bằng moị giá. Tuy nhiên từ thơì điểm này, tình hình có phần lắng đọng, không có những trận đánh lớn, chủ yếu là hai bên cố ý chiếm đất/giữ đất, dành dân. Các lực lượng cơ động giờ laị trải daì doc sườn đông Trường sơn theo tuyến từ Cổ thành Quảng trị đổ vào, để đảm bảo  Huế -Thừa thiên phaỉ được bảo vệ nguyên vẹn.

Các anh lính mũ xanh, mũ đỏ, mũ nâu một thời tung hoành khắp bốn vùng chiến thuật, giờ đây thành những anh lính đóng đồn, người đứng chong mắt qua đêm trên thượng nguồn sông Mỹ chánh, kẻ ngồi chờ sáng quanh đụn cát buồn tận Phá Tam giang. Gần mười năm trải qua những trận thư hùng, hai bên đều có vẻ thấm mệt, đành cầm chân nhau trên đất Trị Thiên, chờ sự sắp đặt của những người làm chính trị mua bán đổi chác trong bàn hội nghị. Cũng do yêu cầu công tác, đơn vị tôi được lệnh từ Sài gòn ra tăng phái cho các đơn vị tổng trừ bị như là những anh lính cầm loa chõ sâu vào các thung lũng cận sơn, hoặc các làng mạc duyên hải để cố “chiêu hồi” các người lính trẻ Bắc việt hoặc kêu gọi đồng bào mình cứ bám lấy đất, lấy quê.

Do tình hình không mấy căng thẳng, nên tôi có dịp ghé Huế nhiều hơn, mới khám phá mình mới chỉ biết Huế bề ngoài, bề trong phải sang bên kia bờ An cựu, phaỉ vào đất Kim long mới hiểu thêm được nét cổ kính, kiêu sa của Huế. Có hai nét đặc thù sẽ thiếu sót khi noí đến Huế mà không nhắc đến Mưa & Giai nhân. Nếu Hà  nội chỉ đẹp khi sang thu, Sài gòn chỉ gợi nhớ khi mưa rồi chợt nắng, thì Huế trong mắt tôi là Huế của mưa. Mưa trên phố Huế là bài hát của những thập niên sau này, nhưng nếu được thể hiện qua tiếng hát Bảo Yến thì đố ai không nhớ Huế"  

Laị noí về giai nhân thì hình như Nguyễn Bính đã khaí quát trong bài thơ, “Nụ cười giai nhân” sáng tác khi ông ghé Huế vào đầu thập niên 40. Nụ cười của người đẹp mà ” đuổi cả cái  sầu thiên vạn cổ/ nhạt nhòa tất cả những màu tươi” thì chẳng ai về sau dám tả  người đẹp của Huế. Có điều phải thừa nhận là nếu Quốc Học sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước thì các hoa khôi Đồng Khánh nhiều người đã trở thành mệnh phụ phu nhân và trở thành huyền thoại của nhiều cuộc tình tốn nhiều giấy mực. Nhóm từ Đồng Khánh-Quốc Học  cùng với Chu văn An-Trưng vương, Gia Long-Pétrus Ký, trở thành những chùm hoa tiêu biểu cho tài năng và hương sắc của tuổi trẻ ba miền trong thời đại tuổi tôi.

Đầu 75, đơn vị tôi rút khỏi chiến trường Trị Thiên, tôi không còn dịp ra lại Huế, nhưng được thằng cháu kể lại cảnh địa ngục nơi cửa Thuận an, khi các lính của ta trong cảnh hỗn quân hỗn quan đã dành nhau để sống. Một số lính kiêu binh đòi chiếm chỗ độc quyền trên mấy con tàu đã đối xử với đồng đội bằng cả tăng lẫn súng, để rồi cuối cùng biết là bị đuổi khỏi tàu, các người lính màu aó bộ binh đã tung những trái lựu đạn cuối cùng của mình để cùng chết chung vơí những kẻ muốn xô đẩy họ xuống. Máu lính lênh láng cả sàn tàu, đọng lại vết đen khó rửa của cảnh nát tình huynh đệ chi binh.

Biển Thuận an trăng sáng thuở nào nay laị là chứng nhân của những cái chết vô nghĩa trong thảm cảnh ”tháng ba gãy súng”. Biển mang vị mặn, không phải của muối. Biển mặn vì máu. Máu của những người lính trẻ đã chết oan vì các tư lệnh, các cấp chỉ huy của họ đã bỏ cuộc, đã bỏ chạy trước để họ phải chân đất chạy ra cửa Thuận an, con đường độc đạo ra biển để trốn chạy những người anh em cùng màu da nhưng khác máu từ phương Bắc đang rượt đuổi theo họ. Những người lính về từ địa ngục, trong đó có thằng cháu tôi, một sĩ quan pháo binh, bị kẹt lại, được dồn vào các trại cải tạo, chờ đợi biến cố họ không mong vào cuối tháng tư, rồi sống tiếp trong cảnh “đáy địa ngục” của Tạ Tỵ.

*

Nhìn lai từ ngày biết Huế, chỉ thấy những ngày buồn chẳng thấy có ngày vui. Buồn cho Huế, buồn cho người dân của Huế, rồi buồn cho những người bảo vệ Huế, buồn cho vận nước đổi thay mà Huế như là một chứng nhân không ngơi nghỉ cho đến ngày tàn cuộc.

Mùa hè 76 khi nghe phong phanh bị chuyển ra Bắc, lòng lo sợ nhưng thoáng nghĩ nếu được chuyển bằng đường bộ có cơ may qua Huế. Traí vơí dự đoán, tù cải tạo được chuyển bằng đường biển. Mười hai năm sau, trở laị Saì gòn trên chuyến tàu suốt Bắc Nam. Ghé Huế lúc nửa đêm, tàu dừng laị ga khá lâu. Soát laị còn đủ tiền kêu tô bún bò. Tô bún ân tình, o bán bún rong biết là dân từ Nam Hà về không chịu lấy tiền. Khách cứ để tiền lại, chạy vôị lên tàu.

Trong cảnh tĩnh lặng nửa đêm về sáng, tàu chạy ra khỏi Huế qua màn sương mỏng giăng kín Trường Tiền. Huế đang ngủ, có vẻ mệt mỏi, xem ra vô tình vơí khách lữ hành.  Cũng từ đêm đó, do hoàn cảnh tôi xa Huế cho đến ngày xa xứ.

Đỗ xuân Tê

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.