Việt Nam: Một Đất Hứa, Nơi Sự Chà Đạp Nhân Quyền Đã Biến Thành Địa Ngục
Việt Nam là một quốc gia có nhiều danh lam thắng cảnh, với niềm tự hào về nòi giống Rồng Tiên, một nền văn hóa đa dạng và một dân tộc siêng năng, cầu tiến. Việt Nam cững có một nền kinh tế đầy sinh động. Nhưng tiếc thay, đã từ qúa lâu, Việt Nam bị lãnh đạo bởi một chế độ độc tài, phủ nhận tự do của người dân, và có một chính sách chà đạp quyền căn bản nhất của con người.
Hoa Kỳ không nên bị chóa mắt bởi một thị trường tiêu thụ rộng lớn và những cơ hội đầu tư béo bở mà sao lãng việc kêu gọi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải có những cải tổ để đưa đến một thể chế đa nguyên, một luật pháp minh bạch, một xã hội công bằng, năng động, trong đó người dân có tự do tín ngưỡng, và một nền dân chủ thực sự. Đây là những quyền làm người căn bản mà tất cả con người ai ai cững phải có. Đây là điều mà bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã cam kết. Đây cững là kim chỉ nam dựng nước của Hoa Kỳ, vì vậy đường lối ngọai giao của Hoa Kỳ phải được đặt trên nền tảng đó.
Như dân biểu Chris Smith đã từng phát biểu, Việt Nam có một "qúa trình rất đáng xấu hổ về việc vi phạm nhân quyền... Những chà đạp này vẫn chưa đủ sao" Cho đến bao giờ thì những hành vi ô nhục này mới chấm dứt" Việt Nam cần phải thóat ra khỏi cái hang tăm tối của sự đè nén, đàn áp, quấy nhiễu và đón lấy tinh thần qúy chuộng tự do, luật pháp, và tôn trọng những quyền làm người căn bản."
Về mặt chính trị, Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục giới hạn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và tự do hội họp trong trật tự. Theo tổ chức Human Rights Watch, dưới sự cai trị độc tài của Đảng Cộng Sản Việt Nam, "hàng trăm tù nhân chính trị, tù nhân tôn giáo giờ này vẫn còn bị giam cầm trong những điều kiện vô cùng khốn khổ. Trong năm 2006, nhà cầm quyền Cộng Sản đã bắt bớ những người đấu tranh cho dân chủ, những người phát biểu bất đồng chính kiến của họ trên mạng lưới internet, và những người sắc tộc theo đạo Thiên Chúa.
Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam tiếp tục truy tố tín đồ của các tôn giáo chính thống (không phải tôn giáo quốc doanh), kiểm sóat gắt gao việc dùng internet, cấm đóan tự do báo chí một cách ngặt nghèo, giới hạn tối đa việc tụ họp, và ngang nhiên bắt bớ, cầm tù người dân chỉ vì những quan điểm tôn giáo và chính kiến của họ. Những cơ quan truyền thông, đảng phái chính trị, tổ chức tôn giáo, và hiệp hội công nông đều không được phép hiện hữu nếu không có sự giám sát của nhà cầm quyền, hoặc nếu họ có những hành vi được cho là đối nghịch với chính sách của Đảng."
Mới tháng Tám năm ngoái, ông Trương Quốc Huy đã bị bắt trong khi đang theo dõi một cuộc thảo luận về dân chủ tại một nơi có dịch vụ internet công cộng. Kỹ sư công chánh Bạch Ngọc Dương đã bị đuổi việc sau khi ông ký tên trong bản Tuyên ngôn Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam. Rồi ông Vữ Hòang Hải đã bị đánh đập tàn nhẫn trong một cuộc khảo cung vì ông đã ủng hộ bản Tuyên ngôn Tự Do Dân Chủ này. Danh sách những nạn nhân bị nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đàn áp chính trị là một danh sách dài lê thê.
Tại Việt Nam, tất cả các tôn giáo bắt buộc phải ghi danh với nhà cầm quyền để xin phép họat động. Và theo đạo luật Bạch Thư Tôn Giáo, Tín Ngưỡng, năm 2004, tất cả những tổ chức tôn giáo được chính quyền cho là có hành động tạo nên sự bất ổn trong quần chúng, bất lợi cho an ninh quốc gia, hay tạo những mầm mống chia rẽ đều bị cấm họat động. Tu sĩ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hiện đang bị giam lỏng tại những tu viện. Có nguồn tin cho biết "hàng trăm đơn xin phép họat động của những tổ chức Thiên Chúa giáo vào năm 2006 đều đã bị từ khước thẳng thừng, bị lờ đi, hoặc đơn đã bị trả về còn nằm nguyên trong phong bì". Tháng Năm năm ngóai, công an Cộng Sản đã đột nhập vào nhà thờ của Hội Thánh Menonite và đập phá mặt tiền của nhà thờ.
Giới công nhân Việt nam không được phép thành lập các công đòan tự trị. Tại Việt Nam, người dân không hề có quyền được tự do hội họp. Trong năm 2005, đạo luật số 34 được ban hành với mục đích ngăn cấm việc tụ họp đông đảo trước những nơi đang diễn ra các buổi hội họp của nhà nước, các hội họp của Đảng, hay các hội nghị quốc tế. Người ta còn cho biết trong năm 2006, trước khi tổng thống Bush đến thăm Hà Nội, cảnh sát đã hốt hết các trẻ em sống bên lề đường và những người dân không nơi cư trú đem nhốt vào những trung tâm cải huấn. Nơi đây thậm chí có người còn bị đánh đập.
Tại Việt Nam, người dân không hề được bảo vệ trước pháp luật. Cảnh sát có thể bắt bớ và giam cầm những kẻ tình nghi mà không cần phải có trát tòa. Dưới nghị luật số 31/CP, người dân có thể bị giam lỏng tại tư gia đến cả hai năm trời mà không hề được mang ra tòa để xét xử. Những vụ án của các người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền được diễn ra trong vòng bưng bít. Hàng trăm tù nhân tôn giáo, chính trị đang bị giam cầm trong lao tù, trong số đó có 350 người sắc tộc vùng cao nguyên. Điều kiện sống trong tù rất thống khổ. Có bản báo cáo cho rằng các tù nhân thường bị tra tấn, hành hạ, đánh đập, và có khi còn bị tra tấn bằng cách cho điện giật.
Tại Việt Nam người dân không có tự do ngôn luận. Khỏang 2000 sinh họat văn hóa và thông tin bị cấm đóan. Truyền thông quốc nội hòan tòan bị kiểm duyệt, trong khi các đài truyền thanh quốc tế bị ngăn chặn và phá sóng. Luật pháp Việt Nam không cho phép những báo chí đối lập với nhà cầm quyền được họat động, ngăn cấm việc phổ biến các tài liệu có hại (cho chính sách nhà nước) hoặc tuyên truyền những tư tưởng chống đối. Nghị quyết số 56 đưa ra những hình phạt nặng nề cho việc bôi xấu thanh danh của quốc gia và tiết lộ những bí mật của đảng. Ký gỉa Nguyễn Vữ Bình đã lãnh một bản án 5 năm, hiện đang ở trong tù, và Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn đã lãnh một bản án tù 7 năm.
Nhà cầm quyền Việt Nam kiểm duyệt mạng lưới internet. Họ thiết lập tường lửa ngăn chặn những websites có nội dung chính trị. Họ kiểm sóat cả emails và đòi hỏi các trung tâm cung cấp dịch vụ internet công cộng phải theo dõi khách hàng. Người dân Việt Nam bị sách nhiễu và thậm chí bị cầm tù chỉ vì họ đã chia sẻ những chính kiến của mình trên các diễn đàn điện tử. Mùa Xuân năm ngóai, hai ký giả Duong Phu Ouong và Nguyễn Huy Cuờng đã bị ngăn cản trong khi họ muốn tham dự một cuộc hội nghị liên quan đến tự do ngôn luận trên mạng lưới internet tại Manila.
Việt Nam hiện vẫn còn đang nằm trong danh sách của các quốc gia được "chú tâm đặc biệt" về tệ nạn buôn bán nô lệ. Những người chuyên nghiên cứu về vấn đề này cho biết Việt Nam vừa là nguồn cung cấp, vừa là nơi mà người ta tìm đến để "mua" những lao nô, nô lệ tình dục. Đám nô lệ này gồm đàn ông, đàn bà và trẻ thơ. Để cung cấp nô lệ tình dục, Việt Nam xuất cảng đàn bà và trẻ em qua Cam Bốt, Trung Hoa, Hồng Kông, Ma Cao, Tân Gia Ba, Thái Lan, Mã Lai Á, Đài Loan, Cộng Hòa Tiệp Khắc và những quốc gia khác. Tuổi trung bình của các em gái nạn nhân là từ 15 đến 17. Một tổ chức phi chính phủ đã tường trình rằng trong giới cầm quyền Cộng Sản, tham những là một tệ trạng rất nặng nề và có mặt ở tất cả mọi cấp bậc. Chính những người có quyền cao chức trọng cững đã dính líu vào đường dây xuất cảng nô lệ, đẩy dân nghèo đi vào chốn lưu đầy.
Bất chấp những trở ngại ngặt nghèo này, các chiến sĩ tự do của Việt Nam đã đứng lên để đấu tranh đòi hỏi một nền dân chủ, luật pháp công minh và nhân quyền cho Việt Nam. Tháng Tư năm ngóai, hơn một trăm người dân Việt Nam đã ký vào "Kháng thư đòi quyền tự do lập đảng chính trị" và bản "Tuyên ngôn Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam". Đến tháng Tám, danh sách những người ký tên đã lên đến con số hơn 2000. Trong tháng Mười, một nhóm người Việt can đảm đã thành lập một nghiệp đòan công nhân độc lập, và những tờ báo tư nhân như "Tự Do Ngôn Luận" và "Tự Do Dân Chủ" đã được phát hành. Dĩ nhiên, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giam, tra tấn những người cầm đầu các tổ chức này, và tịch thu các tài liệu cững như máy vi tính của họ. Nhưng phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ vẫn cứ tồn tại.
Ông Natan Sharansky, một người sống dưới ách thống trị của chế độ độc tài Nga, từng bị tù vì tranh đấu cho tự do, và cững là tác gỉa của cuốn sách quan trọng "The Case for Democracy", đã viết: "Tôi tin rằng con người ai cững muốn được tự do. Tôi tin rằng trên thế giới, nơi nao có tự do thì chốn ấy sẽ được trở thành một chốn an lành. Và tôi tin rằng những quốc gia đang có dân chủ đóng một vai trò then chốt trong việc phát triển tự do đến khắp thế giới." Cất lên tiếng nói của tự do là cơ hội và trách nhiệm của Hoa Kỳ.
Trong bài diễn văn đọc vào ngày tuyên thệ nhậm chức lần thứ hai, tổng thống George W. Bush đã nói: "Tự do, theo đúng nghĩa, phải được tòan dân chọn lựa, hy sinh để bảo vệ, và luôn được luật pháp tôn trọng. Quyền lợi của những sắc tộc thiểu số cững phải được bảo vệ. Khi hồn thiêng của sông núi đã cất tiếng thì những tập thể được ra đời có khi sẽ có những tập tục và truyền thống khác hẳn của chúng ta. Hoa Kỳ sẽ không áp đặt thể chế chính quyền của mình lên những nước khác. Mục đích của chúng ta là giúp những quốc gia khác cất lên tiếng nói của chính họ, đạt được tự do cho họ, theo phương cách của họ.
Việt Nam hiện trước muôn ngàn khó khăn, vẫn có những người yêu nước can đảm, dám cất cao tiếng nói để tranh đấu đòi tự do cho dân tộc. Những người này luôn bị sách nhiễu và phải thường xuyên đối diện với ngục tù, nhưng họ vẫn nhất quyết không lùi bước.
Trách nhiệm của Hoa Kỳ và tất cả những người yêu chuộng tự do trên thế giới là phải góp sức mình, hỗ trợ những chiến sĩ đấu tranh cho tự do để giúp họ thành công. Vì, như Ronald Reagan đã nói, "tự do không phải chỉ dành cho một số những người may mắn, mà phải là của tất cả nhân lọai."
***
Đại Sứ Williamson từng là Thứ Trưởng Ngoại Giao về Quốc Tế Hiệp Hội Sự Vụ (Assistant Secretary of State for International Organization Affairs) - Đại Sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc (thời Tổng Thống Reagan) - Đai Sứ Trưởng Phái Đòan Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc của Ủy Hội Nhân Quyền Quốc Tế 2004 tại Geneve Thụy Sĩ cùng với Tiến sĩ Hà Văn Hải. Cả hai cùng được Tổng Thống Bush đề cử Đại Diện Chính Phủ Hoa Kỳ trong dịp này.
Richard S. Williamson - 27 tháng 2, 2007 (bản dịch LLQDVN)