Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục "lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
*
(Tiếp theo...)
Ngay khi được đặt chân lên Miền Nam Tự Do, cảm tưởng đầu tiên của tôi là Miền Nam nhất định sẽ thắng Miền Bắc. Nhìn vào sức mạnh quân sự của VNCH và những căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ để lại ở Đà Nẵng lúc đó, tôi tin tưởng mãnh liệt, cộng sản Bắc Việt sẽ thảm bại. Nhưng trong những năm tiếp theo, tôi dần dần cảm thấy chính sự tự do của Miền Nam khiến cho sức chiến đấu chống cộng sản xâm lăng, của Miền Nam bị suy giảm. Quyền tự do cá nhân của người dân Miền Nam quá lớn so với người dân Miền Bắc. Trong một xã hội dân chủ thời bình, đó là một đặc tính ưu việt. Nhưng trong chiến tranh, điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự đoàn kết của quân dân đằng sau vị nguyên thủ quốc gia. Đúng ra, nếu đem so sánh đời sống tinh thần, vật chất, tính nhân bản, cùng những giá trị văn hóa của người dân hai miền Nam Bắc, nhiều người đã có lý khi cho rằng, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thà thua trận mà được làm người dân Miền Nam, còn sung sướng hạnh phúc hơn là thắng trận mà phải làm người dân Miền Bắc.
Quả thực, sống ở Miền Nam tôi nhận ra, một xã hội có văn hiến, mọi người sống có tình nghĩa, biết yêu thương đồng loại, trân trọng những giá trị tinh thần, một khi phải đối diện với một kẻ thù tàn nhẫn, xảo quyệt, bất lương, chỉ biết tôn thờ sức mạnh, và coi nòng súng là lẽ phải, làm sao xã hội có văn hiến đó có thể chiến thắng"
Trong suốt thời gian chiến tranh cũng như sau chiến tranh, phải vô các trại cải tạo, phải chứng kiến những tội ác man rợ của cộng sản, những sự tàn nhẫn bất lương, thủ đoạn lường gạt, đầy tráo trở của cán bộ, quản giáo, từ người già đến người trẻ, từ cấp cao đến cấp thấp trong chế độ cộng sản, nhiều người Miền Nam đã thẳng thắn thừa nhận: Người cộng sản đểu giả quá. Mình không thể nào thắng họ được. Thà chấp nhận thua họ, chứ đểu như họ để có thể thắng họ thì mình không làm được.
Trong chiến tranh Việt Nam, một trong những điều bạc ác, bất nhân, thất đức nhất của người cộng sản là chiến tranh du kích. Sự thực, chiến tranh du kích là đường lối chiến thuật được kẻ yếu áp dụng để đối phó với kẻ thù mạnh. Đặc tính của một cuộc chiến tranh du kích thuần túy là người du kích tấn công đối phương vào lúc bất ngờ để giành tối đa hiệu quả chiến đấu, giết được nhiều kẻ thù nhất, ít thiệt hại về nhân mạng và vũ khí, đạn dược nhất. Trong lịch sử chiến tranh thế giới cũng như Việt Nam, chiến tranh du kích được áp dụng tại nhiều nơi, nhiều lúc và không ai đặt câu hỏi về sự phi nhân của chiến tranh du kích. Tuy nhiên, đối với cộng sản Việt Nam, chiến tranh du kích không phải là đường lối chiến thuật thuần tuý mà là cả một hình thức vận động chiến tàn ác, với thủ đoạn, khai thác tối đa sự hiện diện của thường dân, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và ông bà già, vào cuộc chiến để làm bia đỡ đạn. Bằng cách trà trộn với thường dân, tấn công đối phương, cộng sản Việt Nam đạt được ba mục tiêu. Thứ nhất, tiếp cận và tấn công đối phương nhanh chóng bất ngờ. Thứ hai, qua những thương vong không tránh khỏi cho thường dân, CS thổi bùng lòng hận thù trong lòng họ. Thứ ba, mỗi khi thường dân bị chết, cộng sản sẽ dùng xác thường dân để tuyên truyền, quy chụp tội ác chiến tranh cho đối phương. Thứ tư, gây ác mộng và khủng hoảng tâm lý triền miên cho đối phương.
Tham chiến tại Việt Nam, một người lính VNCH, hay người lính Mỹ, lính đồng minh nói chung, đều mang vô cuộc chiến tinh thần thượng võ, cùng những giá trị nhân bản và văn hóa mà họ đã thu thập được trong nhà trường, ngoài xã hội... Nhưng một khi trận chiến bùng nổ, trong cảnh súng đạn tơi bời, tính mạng bị nguy hiểm, đồng đội chiến hữu thân yêu nhất bên cạnh lần lượt bị hy sinh, trong khi kẻ thù lại ẩn nấp trong dân, không chịu lộ diện, thì sự bình tĩnh, tỉnh táo của người lính luôn luôn có giới hạn. Hậu quả, một khi có những thảm kịch như thảm kịch Mỹ Lai xảy ra, mọi người đều dí tay vào trán những người lính Mỹ, mà quên mất, chính những người cộng sản Việt Nam mới là chánh phạm cố tình cố ý sắp đặt để tạo nên những thảm kịch đó một cách có hệ thống và chủ trương.
TÔI MẤT TỰ DO!
Được sống dưới vùng trời tự do không đầy 4 năm, thì cả Miền Nam bước vào biến cố 30-4-1975. Thời gian đó, tôi đang sống trong một căn phòng nhỏ thuộc Bộ Thông Tin Chiêu Hồi ở 272 Hiền Vương. Trong những tuần lễ cuối cùng của tháng 4, ông Trần Trường Khanh có cho tôi một địa chỉ ở Cần Thơ và lời nhắn nhủ, hãy về đó cố thủ!