Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Kinh Tế Trung Quốc: Nguy Cơ Tiềm Ẩn

20/01/200400:00:00(Xem: 14424)
Quan hệ ngoại giao VN-Trung Quốc vừa được đôi bên ăn mừng bước vào năm thứ 55 và Hà Nội vẫn coi Trung Quốc là mẫu mực nên học, theo Bắc Kinh gọi là “xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa” hoặc Hà Nội gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.”
Nhân dịp đầu năm mới, Đài RFA phỏng vấn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về những nguy cơ tiềm ẩn trong nền kinh tế Trung Quốc như sau.
Hỏi: Thưa ông, trong năm vừa Trung Quốc đã đạt tốc độ tăng trưởng trên 8%, coi như cao nhất địa cầu, và Việt Nam đứng hạng hai, với đà tăng trưởng là hơn 7,2%. Như vậy, mô thức kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải có giá trị hiển nhiên"
-- Lãnh đạo hai xứ ấy, nhất là Hà Nội, có thể nghĩ như vậy, nhưng thực tế không hẳn là vậy. Nói về tốc độ tăng trưởng, ta phải xét từ gốc là tăng trưởng từ đâu đến đâu. Từ một xứ hoang vu chỉ có một nhà máy mà mình xây thêm nhà máy thứ hai thì mình đã đạt tốc độ tăng trưởng 100%, nhưng so với các lân bang đã có cả trăm nhà máy, thì có xây thêm 20 cũng chỉ là tăng trưởng 20% mà thực tế là hơn ta gấp hai chục lần. Nếu có so sánh, một vài xứ châu Phi nghèo nhất như Chad cũng đạt tốc độ tăng trưởng là gần 60% hay Liberia là hơn 20%. Một xứ bị chiến tranh như Iraq cũng có thể đạt tốc độ tăng trưởng gần 20% và bị nội loạn như Georgia cũng có tốc độ gần 10%. Tăng trưởng vì vậy chưa là phát triển và nền kinh tế Trung Quốc thực ra cũng có những nhược điểm có thể dẫn tới nhiều biến động nguy hiểm trong năm Thân này mà Việt Nam nên để ý. Năm nay sẽ là một thử nghiệm gay gắt cho mô thức kinh tế thị trường trong vòng đai xã hội chủ nghĩa.
Hỏi: Chúng ta sẽ khởi sự từ đầu, và xin ông trình bày lý do của sự hoài nghi này.
-- Người ta ưa so sánh Trung Hoa với một con rồng và cho là con rồng Trung Quốc nay đã thức giấc với thành quả kinh tế cho phép xứ này có khả năng quân sự và ngoại giao chưa từng thấy. Nếu nhìn từ thời cách mạng điên rồ của Mao Trạch Đông thì điều đó không sai, nhưng nhìn rộng hơn thì Trung Quốc đang có vấn đề, con rồng đó có cái đầu như bã đậu và lãnh đạo xứ này ý thức được điều đó hơn lãnh đạo Việt Nam. Họ đang ráo riết cải cách và còn tu chỉnh hiến pháp để sớm bước ra khỏi những ràng buộc chính trị của xã hội chủ nghĩa, nhưng các động lực kinh tế đã được bung ra và có thể sẽ đưa xứ này vào những sóng gió mới. Động lực kinh tế khiến lãnh đạo hết là trung tâm độc quyền như xưa nhưng nạn tham nhũng đi cùng chế độ độc đảng cũng khiến lãnh đạo bị coi thường, khác hẳn cái thời mà cả nước như lên đồng dưới khẩu hiệu cách mạng của đảng. Năm nay còn có thể thấy sự phá sản của mô thức kinh tế thị trường nửa vời này và Trung Quốc mà có loạn thì kinh tế Việt Nam tất bị ảnh hưởng nặng, lãnh đạo Việt Nam mất luôn chỗ tựa.
Hỏi: Vì sao ông không có vẻ lạc quan gì với thành quả kinh tế của Trung Quốc"
-- Vì lãnh đạo xứ này đã xây nên một kiến trúc nguy nga đồ xộ trên nền móng mong manh, loại thành quả mà cựu Thủ tướng Chu Dung Cơ gọi là “đậu phụ”, tức là mềm và dễ nát. Khi kiến trúc đó sụp đổ, chẳng những người dân và giới đầu tư bị thiệt hại mà các lân bang cũng bị họa lây, trong đó có Việt Nam. Lý do có thể kể được liệt kê rất nhiều. Xứ này trở thành trung tâm tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới, một nước nhập khẩu dầu thô nhiều hơn Hoa Kỳ, dù có trữ lượng thứ năm của địa cầu mà không có khả năng giải quyết nhu cầu đó trong khi lại gây ô nhiễm cho môi sinh. Khi Việt Nam bị dịch cúm gà và cần tiêu hủy hàng vạn gia cầm, người ta dùng vỏ lốp xe để đốt, mọi người tất nhiên để ý đến trình độ tổ chức quá tệ của xã hội ta, tại Trung Quốc, loại vấn đề như vậy phải nhân gấp trăm. Sau vấn đề tổ chức, hãy nhìn vào mặt trái của tốc độ tăng trưởng gọi là cao nhất địa cầu: Trung Quốc đang bị khủng hoảng về nhân dụng, với nạn thất nghiệp toàn thời và bán thời đã cao bằng dân số lao động của cả nước Mỹ, là hơn hai trăm triệu người. Mỗi tháng, xứ này phải tạo thêm một triệu việc làm mới cho dân số rất trẻ của mình. Không thì loạn. Vì nạn thất nghiệp mà việc cải cách doanh nghiệp nhà nước ra khỏi chế độ bao cấp đã bị khựng, nhưng cũng đủ gây xáo trộn xã hội và rủi ro chính trị cho lãnh đạo. Sau loại tắc nghẽn về năng lượng và khủng hoảng về nhân dụng, Trung Quốc còn gặp một nguy cơ cận kề là khủng hoảng tài chính và ngân hàng, y như trường hợp Việt Nam.
Hỏi: Vâng, ông có nhiều lần trình bày về hồ sơ ngân hàng này, xin ông giải thích thêm...
-- Vì cái gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa, thực ra vì lãnh đạo muốn được lợi nhờ tự do kinh tế nhưng đảng vẫn nắm giữ quyền lực, Trung Quốc dùng hệ thống ngân hàng như một trung tâm thu hút tài nguyên quốc dân dồn cho khu vực quốc doanh với hậu quả là hệ thống ngân hàng nay ngập trong biển nợ, với số nợ không sinh lời và sẽ mất có thể lên tới từ 400 đến 500 tỷ đô la. Tuần trước, lãnh đạo xứ này quyết định bơm cho các ngân hàng thương mại quốc doanh 45 tỷ để chấn chỉnh sổ sách và số tiền trả nợ đậy có thể còn lên gấp đôi, nhưng vẫn chưa thấm vào đâu. Giới đầu tư nước ngoài dĩ nhiên chả dại gì mà bù tiền vào khoản thâm hụt đó như thổi gió vào nhà trống. Bắc Kinh phải chấn chỉnh các ngân hàng trước thời hạn của tổ chức mậu dịch thế giới WTO quy định là cuối năm 2005. Sau đó là hệ thống ngân hàng Trung Quốc sẽ hết được bảo vệ và phải cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Việt Nam hiểu chuyện này, vì cũng có vấn đề tương tự. Nhưng, tình hình Hoa Lục còn nguy khốn hơn vì một hiện tượng khác là tẩu tán tư bản.

Hỏi: Ông đang nói về trường hợp của Trung Quốc"
-- Vâng, truyền thông xứ này và cả thế giới chỉ nói đến các khoản đầu tư nước ngoài được trút vào Hoa Lục mà không để ý đến loại đầu tư từ Hoa Lục chuyển qua xứ khác. Ngoài hoạt động tẩu tán tài sản của đảng viên cán bộ muốn tự chuẩn bị cho mình một tương lai khá giả sau khi mất quyền, ta còn hoạt động tài chính của các ngân hàng và doanh nghiệp Hoa Lục vì họ thấy là đem tiền qua xứ khác đầu tư lại có lợi hơn và nhất là an toàn hơn. Khi bắt đầu cải tổ, đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc một năm chỉ ở khoảng 400 triệu, vào thập niên trước, số này lên đến hơn hai tỷ. Vừa qua, tổ chức UNCTAD về Ngoại thương của Liên hiệp quốc cho biết là năm 2002, riêng 12 doanh nghiệp lớn nhất Hoa Lục, dĩ nhiên là quốc doanh, đã đầu tư ra ngoài hơn 30 tỷ Mỹ kim. Các ngân hàng Hoa Lục thì chú trọng tới khách nợ ở nước ngoài, bốn ngân hàng quốc doanh chẳng hạn đã làm chủ một khoản nợ ngoại quốc là hơn 100 tỷ, và xu hướng này đang tiếp tục, năm 2000 cho vay ra ngoài chừng hơn 32 tỷ, năm sau gần gấp đôi, là gần 62 tỷ. Về nạn chuyển ngân của tư nhân thì chính quyền Bắc Kinh công nhận là từ 1997 đến 1999 đã có 52 tỷ bị tẩu tán ra ngoài. Ở bên ngoài, người ta biết là có hiện tượng này nhưng chưa tính được chính xác là bao nhiêu, ngoài số ước lượng là vài chục tỷ mỗi năm. Nếu họ vững tin vào tương lai kinh tế xứ này theo mô thức xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Quốc thì đã chẳng có nạn tẩu tán như vậy, và đây là một nghịch lý ít ai nói tới.
Hỏi: Chưa kể một nghịch lý khác là Trung Quốc dồn sức xuất khẩu để thu ngoại tệ và lại chuyển ngoại tệ đó ra ngoài"
-- Trong nền kinh tế tự do đích thực, người ta đầu tư vào nơi có lợi nhất, việc doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ra ngoài để thu thập kiến thức, công nghệ hay mở rộng thị trường là điều có lợi cho xứ sở. Nhưng, hãy nhớ đến yêu cầu đầu tư rất lớn trong nội địa để tạo ra hàng triệu việc làm mỗi tháng. Dường như lãnh đạo xứ này đã không học được bài học của Nhật Bản, là thắt lưng buộc bụng để xuất khẩu tối đa bất kể lời lỗ, chỉ cần gia tăng thị phần của mình là đủ, sau đó lại nhắm mắt đầu tư ra nước ngoài, thấy gì cũng mua, tưởng rằng đó là bành trướng thế lực và ảnh hưởng. Cũng như vậy, Trung Quốc đang thổi lên một trái bóng đầu tư với những dự án có giá trị kinh tế rất kém, thí dụ điển hình là ở Thượng Hải. Lãnh đạo chậm tiến thường ưa khánh thành các công trình nguy nga để tiếng cho đời mà ít khi nghĩ đến dự án nhỏ bé mà thiết thực cho dân đen. Cho đến khi tất cả sụp đổ, như các nước Đông Á đã gặp năm 1997, thì lại đổ lỗi cho tư bản và đầu cơ.
Hỏi: Vì những vấn đề đó mà ông tiên đoán là có lúc trái bóng Trung Quốc cũng sẽ vỡ"
-- Vâng, ta có tất cả chất liệu cần thiết cho một vụ bể bóng đầu tư. Kinh tế Trung Quốc bắt đầu bị nóng máy và có thể phải hãm đà tăng trưởng để tránh nguy cơ lạm phát trong khi thị trường thì lại hồ hởi với ảo giác phồn thịnh và triển vọng đầu cơ. Đồng thời, Bắc Kinh vẫn phải tư nhân hóa các cơ sở quốc doanh để kịp thời tôn trọng quy định của WTO, với hậu quả tất yếu vẫn là sa thải nhân viên dư dôi. Đến nay, lãnh đạo xứ này đã hoàn tất các chương trình cải cách dễ làm nhất, nay là lúc phải lần tới những khâu phức tạp và rủi ro hơn. Nền móng kinh tế lại quá mong manh nên nạn suy trầm nhỏ cũng thành suy thoái lớn và lập tức chuyển ra động loạn xã hội. Vì vậy mà vào dịp Tết Nguyên Đán, nhà nước mới tăng cường kiểm soát an ninh tại Bắc Kinh vì sợ dân chúng bất mãn sẽ biểu tình.
Hỏi: Và câu kết luận của ông vẫn trở lại Việt Nam.
-- Vâng, chúng ta không để ý là từ lâu lắm rồi, dễ đến vài thế kỷ, lần đầu tiên Việt Nam mới có một hệ thống lãnh đạo tồn tại vài chục năm để học bài trong một đất nước độc lập và hòa bình. Suốt thời gian đó, lãnh đạo xứ này học được gì và làm được gì cho sự tiến hóa của xã hội và quốc gia" Suốt thời gian đó, lối cải cách nửa vời chỉ cải tiến mức sống cho thiểu số đảng viên chứ đất nước vẫn chậm tiến lạc hậu và hố sâu giàu nghèo vẫn đào sâu. Việt Nam hiện có nhiều vấn đề tương tự như Trung Quốc, với tiềm lực lại thấp hơn. Một vụ khủng hoảng tại Trung Quốc có thể là lời cảnh báo, có khi là quá trễ, vì Việt Nam không có một chính quyền mạnh, tức là có khả năng tác động và yểm trợ cho sinh hoạt xã hội và kinh tế quốc dân như trong các nước dân chủ, mà chỉ có một chính quyền độc tài nhưng bất lực trước các vấn đề sinh tử của đất nước. Lầm lẫn ách độc tài với thực lực của nhà nước là một sự lạc hậu kỳ cục sau khi đã cầm quyền được hơn một phần tư thế kỷ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.