Đến năm 2005, mật độ xe cộ ở Hà Nội sẽ tới 585 xe máy và 30 xe hơi, thường được gọi là “ô tô con”/1.000 dân, ở Saigon sẽ có 453 xe máy và 18 xe hơi/1.000 dân. Đến năm 2010, những con số này sẽ tăng tới mức 640 xe máy và 66 xe con/1.000 dân tại Hà Nội và 500 xe máy, 40 xe con/1.000 dân tại Saigon...
Đây là những con số được dự báo ở mức khiêm tốn: tốc độ tăng trưởng xe máy chỉ 4 - 6%/năm, xe con 15 - 20%/năm. Mật độ xe cộ này cao hơn so với thế giới là 60 - 70 xe máy/1.000 dân.
“Với sự bùng nổ xe máy và hơi cá nhân như vậy, hệ quả tất yếu là giao thông chậm và tắc nghẽn giao thông”. Các nhà khoa học của trường Đại học GTVT chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mang mã số 10 - 02, không chỉ khẳng định điều này mà còn tính toán được rất cụ thể: “Về thời gian bình quân cho một chuyến đi ở Hà Nội đến năm 2005 sẽ kéo dài thêm 18,75 phút và đến năm 2010 là 34,5 phút. Tương tự ở Saigon thời gian bình quân cho một chuyến đi vào năm 2005 sẽ kéo dài thêm 20,5 phút, năm 2010 thêm 46 phút”. Thời gian kéo dài như vậy sẽ gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế như tốn hao nhiên liệu, giảm tuổi thọ của động cơ, của các trang thiết bị khác... chưa kể đế những thiệt hại do chậm trễ gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. Các nhà khoa học đã ước tính được cái giá phải trả cho sự chậm chạp và ách tắc này vào năm 2005 là 274,4 triệu USD (cho Hà Nội), 1.245 triệu USD (cho Saigon); còn đến năm 2010 là 945,6 triệu USD (cho Hà Nội) và 4.848 triệu USD (cho Saigon).
Muốn khắc phục tình trạng giao thông chậm và ách tắc thì yêu cầu cơ bản là phát triển xây dựng đường! Những tính toán đã được thực hiện cho biết phải cần một số vốn khổng lồ để đầu tư xây dựng đường giao thông trong những năm tới. Năm 2005 riêng Hà Nội cần 1.662 triệu USD, và Saigon cần 4.618 triệu USD. Năm 2010 Hà Nội cần 3.180 triệu USD, Saigon cần 7.725 triệu USD. Đây là số vốn để có thể nâng được mật độ mạng lưới giao thông hiện có ở mức 3,5 - 4 km/km2 hoặc 0,15 - 0,20 km/1.000 dân lên mức tiêu chuẩn phát triển trung bình của thế giới là 5km/km2 và 0,3km/1.000 dân.
Nhưng để xây dựng đường, trước hết cần phải đảm bảo đủ qũi đất, và qũi đất này phải được phân bố hợp lý, thoả mãn cho việc phát triển các chức năng của hệ thống giao thông đô thị (kể cả nơi dừng đỗ, bãi đậu xe...). Hiện nay tỷ lệ qũi đất dành cho giao thông đô thị ở cả Hà Nội và Tp.SG mới đạt bình quân khoảng 8% (trong đó 7% cho giao thông động và 1% cho giao thông tĩnh), còn quá thấp so với tiêu chuẩn phát triển trung bình là 20% (gồm 16% cho giao thông động, 4% cho giao thông tĩnh).
Một yêu cầu khác nữa rất quan trọng là phải phát triển vận tải hành khách công cộng (VTHKCC). Hiện nay các chỉ tiêu về VTHKCC tại Hà Nội và Saigon còn quá thấp nếu so sánh với tiêu chuẩn phát triển ở mức trung bình của thế giới. Cụ thể: tỷ lệ sử dụng VTHKCC mới đạt 2 - 3% (so với 40%), mật độ mạng lưới tuyến VTHKCC 0,8 - 1km/km2 (so với 4 km/km2), số lượng ghế xe/1.000 dân: 10 - 12 (so với 80 ghế/1.000 dân)... và đặc biệt là chỉ tiêu vốn đầu tư giao thông vận tải đô thị tính bình quân cho một người dân trong một năm mới đạt 15 - 20 USD so với mức tiêu chuẩn trung bình phải là 150 USD/người/năm.
Đây là những con số được dự báo ở mức khiêm tốn: tốc độ tăng trưởng xe máy chỉ 4 - 6%/năm, xe con 15 - 20%/năm. Mật độ xe cộ này cao hơn so với thế giới là 60 - 70 xe máy/1.000 dân.
“Với sự bùng nổ xe máy và hơi cá nhân như vậy, hệ quả tất yếu là giao thông chậm và tắc nghẽn giao thông”. Các nhà khoa học của trường Đại học GTVT chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mang mã số 10 - 02, không chỉ khẳng định điều này mà còn tính toán được rất cụ thể: “Về thời gian bình quân cho một chuyến đi ở Hà Nội đến năm 2005 sẽ kéo dài thêm 18,75 phút và đến năm 2010 là 34,5 phút. Tương tự ở Saigon thời gian bình quân cho một chuyến đi vào năm 2005 sẽ kéo dài thêm 20,5 phút, năm 2010 thêm 46 phút”. Thời gian kéo dài như vậy sẽ gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế như tốn hao nhiên liệu, giảm tuổi thọ của động cơ, của các trang thiết bị khác... chưa kể đế những thiệt hại do chậm trễ gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh. Các nhà khoa học đã ước tính được cái giá phải trả cho sự chậm chạp và ách tắc này vào năm 2005 là 274,4 triệu USD (cho Hà Nội), 1.245 triệu USD (cho Saigon); còn đến năm 2010 là 945,6 triệu USD (cho Hà Nội) và 4.848 triệu USD (cho Saigon).
Muốn khắc phục tình trạng giao thông chậm và ách tắc thì yêu cầu cơ bản là phát triển xây dựng đường! Những tính toán đã được thực hiện cho biết phải cần một số vốn khổng lồ để đầu tư xây dựng đường giao thông trong những năm tới. Năm 2005 riêng Hà Nội cần 1.662 triệu USD, và Saigon cần 4.618 triệu USD. Năm 2010 Hà Nội cần 3.180 triệu USD, Saigon cần 7.725 triệu USD. Đây là số vốn để có thể nâng được mật độ mạng lưới giao thông hiện có ở mức 3,5 - 4 km/km2 hoặc 0,15 - 0,20 km/1.000 dân lên mức tiêu chuẩn phát triển trung bình của thế giới là 5km/km2 và 0,3km/1.000 dân.
Nhưng để xây dựng đường, trước hết cần phải đảm bảo đủ qũi đất, và qũi đất này phải được phân bố hợp lý, thoả mãn cho việc phát triển các chức năng của hệ thống giao thông đô thị (kể cả nơi dừng đỗ, bãi đậu xe...). Hiện nay tỷ lệ qũi đất dành cho giao thông đô thị ở cả Hà Nội và Tp.SG mới đạt bình quân khoảng 8% (trong đó 7% cho giao thông động và 1% cho giao thông tĩnh), còn quá thấp so với tiêu chuẩn phát triển trung bình là 20% (gồm 16% cho giao thông động, 4% cho giao thông tĩnh).
Một yêu cầu khác nữa rất quan trọng là phải phát triển vận tải hành khách công cộng (VTHKCC). Hiện nay các chỉ tiêu về VTHKCC tại Hà Nội và Saigon còn quá thấp nếu so sánh với tiêu chuẩn phát triển ở mức trung bình của thế giới. Cụ thể: tỷ lệ sử dụng VTHKCC mới đạt 2 - 3% (so với 40%), mật độ mạng lưới tuyến VTHKCC 0,8 - 1km/km2 (so với 4 km/km2), số lượng ghế xe/1.000 dân: 10 - 12 (so với 80 ghế/1.000 dân)... và đặc biệt là chỉ tiêu vốn đầu tư giao thông vận tải đô thị tính bình quân cho một người dân trong một năm mới đạt 15 - 20 USD so với mức tiêu chuẩn trung bình phải là 150 USD/người/năm.
Gửi ý kiến của bạn