Đường Tự Do Saigon,tiểu thuyết Nhã Ca. <"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />
Bìa sách: Tranh Nguyễn Trung.
Lần đầu ấn hành tại hải ngoại, 2006.
Lần đầu tiên, ‘Đường Tự Do, Saigon’ -bộ sách “nặng ký” nhất của Nhã Ca, sau hơn 40 tác phẩm đã xuất bản- được ấn hành thành sách. Đây là bộ truyện đã đăng tải trên Việt Báo liên tục 10 năm, từ 1993 tới 2003.
Sau hai năm sửa chữa, thêm bớt, ‘Đường Tự Do, <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Sau đây là “Hai Đoạn Mở Truyện” trích từ sách “Đường Tự Do Saigon”:
I. MAI THẢO
Viết Về Đường Tự Do
Đó là thời gian mười một tháng sau tháng Tư 1975, một số bạn thân chung như Cung Tiến, Nguyên Sa, Túy Hồng, Thanh Nam, Đỗ Quí Toàn đã đi thoát. Ba anh em cùng nằm trong số văn nghệ sĩ kẹt lại với
Hai tháng nằm ẩn dưới mái nhà Từ Nhã, giữa hồng thủy chìm đắm, —sáng sáng cháu Sớm Mai đi mua cà phê lén đưa lên lầu cho “bác Ba”, trưa trưa ngồi địch cờ tướng với ông vua cờ tí nhau là cháu Phương Đông, Nhã thì đối phó với chế độ ở cửa hàng tầng dưới— là lúc tôi được biết nhiều nhất về quá khứ Từ Nhã. Về những tiếng cười, những giọt lệ của đời họ. Về những ân tình họ đã có, những xấp ngửa họ đã gặp.
Qua những đêm khuya, con đường Tự Do phía dưới bằn bặt trong giới nghiêm cộng sản, Nhã đóng cửa hàng, lên lầu, hai anh em ngồi trò truyện với nhau, cùng ôn lại những buồn vui cũ. Với hình ảnh Từ ở xa, không biết sống chết thế nào, giữa một vùng rừng núi Tây Nguyên.
. . .
Tôi muốn dùng lại hai chữ “tâm thái” để nói về thân gần giữa tôi với vợ chồng Từ Nhã.
Tâm thái đấy. Tâm thái thôi.
Và thấy. Và có. Thấy và có.
Như những đêm say ngất và ngủ lại Hoàng Hoa Thám, sáng dậy bật cười thấy chai rượu còn ôm chặt trong tay.
Như cái buổi trưa trốn tránh, mệt lả, cùng đường, Nhã mở cửa cho tôi vào, đóng cửa lại, nói giản dị: “Tạm coi như chỉ dấu anh được một tuần lễ. Sau đó thế nào lại tính.” Tâm thái. Thấy và có. Như cái lần đầu đi thăm nuôi Từ ở Pleiku, Nhã hỏi nhỏ chồng: “Em đã đưa anh Mai Thảo về nằm ẩn trên lầu, có sao không"” Và Từ: “Anh Thảo đang ở nhà ta hả" Em làm sao cho đừng xẩy ra chuyện gì là được.”
Như cái buổi chiều ngày 3 tháng 12, 1977 của lần ra biển thứ hai, cái buổi chiều không bao giờ tôi quên. Sau bữa nhậu trên căn lầu số 142 đường Tự Do tiễn người ra nghìn trùng tìm đường sống Nhã và mấy cậu em nuôi giang hồ đãi tôi bằng rượu đế và heo quay Chợ Cũ, phút chia tay tôi không thấy cần phải tỏ hiện với Nhã một tình cảm nào. Chỉ cầm lấy tay: “Tôi đi nhé, Nhã.” Và Nhã, gật: “Mong anh đi lần này may mắn hơn lần trước. Tới nơi báo tin ngay về cho ở nhà vui.”
Rồi mở cửa sau, nhìn theo tôi đi.
. . .
Từ Nhã, một buổi chiều 13 năm trước, trong đại họa lớn nhất xẩy ra cho đời mình và từ một khung cửa Nhã đứng, tôi đã đi thoát được. Đã sống. Mười ba năm sau đến lượt Từ Nhã cũng ra được nước ngoài, sau cơn hồng thủy.
Những xâu chuỗi cùng tắc biến của anh em ta có nhiều mặt. Những may mắn, thật bất ngờ, cũng vậy. Tôi thì vì được yên lành sau hai tháng nằm ẩn cheo leo dưới mái nhà Từ Nhã, có đêm công an phường ập vào xét, Nhã phải chỉ cho tôi leo lên nằm ẩn ở một gờ mái. May mắn nữa vì Nhã tìm ra được đường dây vượt biển, giao được tôi cho tổ chức đưa người. Từ Nhã thì là Thụy Điển. Sự can thiệp tuyệt đẹp của chính phủ, thủ tướng, Văn Bút Thụy Điển.
Nhưng trên hết thẩy những may mắn, những cùng tắc biến ấy của anh em ta, tôi còn thấy một điều khác.
Là tâm thái. Là cái áng mây thanh thoát, cái giải nắng thanh thản ấy của tâm thái.
Một tâm thái nào đó.
Giữa ta với người.
Giữa ta với đời.
Giữa anh em ta.
Mai Thảo
(tạp chí Văn, tháng Tư, 1989, số đặc biệt chào mừng Trần Dạ Từ-Nhã Ca tới Thụy Điển)
*
II. NHÃ CA
Từ Một Mảnh Đêm Xưa
Một đầu, dòng sông
Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào nữa. Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do.
Chính từ con đường này, tôi đã cùng bạn hữu lang thang thời tuổi trẻ ngông cuồng, đã cùng con cái cố thủ những năm bị tù đầy, săn đuổi, trù dập. Đó cũng là nơi tôi được nhìn lần sau cùng bà con thành phố quê hương trước khi phải sống đời lưu vong. Ân nghĩa con đường ấy cho tôi không cách gì kể hết. Nó nhất định mãi mãi phải là đường Tự Do.
Đủ loại gót giầy, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giầy dép. Thằng Bò, một em bé ăn mày, bằng cả bốn chân tay teo tóp đã bò lê trên vỉa hè ấy.
Không chỉ riêng em đâu, thằng Bò tội nghiệp, chính tôi, bằng tâm hồn teo tóp của mình, từ hơn mười năm nay, dù cách một đại dương, vẫn không ngừng lê la trên những vỉa hè cũ. Từ một mảnh đêm xưa…
. . .
“Mẹ à. Khuya rồi mẹ đi ngủ đi, mai còn có sức đi đường. Mai mẹ dậy mấy giờ"”
“Ba giờ sáng. Mẹ lên bến xe Bình Triệu sớm mới mua nổi vé chợ đen.”
“Rồi xích lô, mẹ đã...”
“Xong hết rồi, con. Mai bác Chín sẽ tới kêu cửa. Bác ấy cẩn thận lắm. Lần nào bác cũng ở lại cho tới lúc mẹ lên xe yên ổn, bác mới đạp về. Con cũng đi ngủ đi. Ở nhà, rán trông em.”
“Con đã coi lại các giỏ đồ. Gọn gàng hết rồi mẹ. Giờ mẹ đi ngủ một tí. Con còn viết nốt lá thư cho ba. Hôm nay mẹ có muốn con ngủ chung với mẹ không"”
“Không, con. Con đi ngủ trước, mẹ còn thức.”
“Vậy mẹ lên lầu đi. Con tắt đèn rồi lên luôn. Con sẽ cột con mèo nơi chân bàn. Các giỏ đồ con để hết lên bàn. Vậy là yên tâm về lũ chuột.”
Con mèo đang quấn quít bên chân. Con vật dễ thương biết bao. Lần nào sửa soạn đi thăm nuôi, nó cũng giữ nhiệm vụ canh đồ. Rồi nữa, một tuần lễ tôi vắng nhà, nó nằm khoanh tròn trên đôi dép để lại trước cửa phòng. Đã vài ba lần nó bị nhóm bụi đời bắt hụt, về tới nhà, râu ria nhẵn nhụi, lông lá xơ xác, nhưng kêu réo ồn ào, quấn lấy tụi nhỏ. Nó kêu la những gì, không có lời. Bé Ti nhè, con gái út của tôi “thuyết minh” dùm: nó đang kể về vụ thoát nạn của nó, mẹ. Con thấy mấy người bụi đời bên công viên bắt mèo nướng ăn hoài. Ê, miu, mày đừng lang thang nghe miu.
Ti nhè, đâu có chịu ngủ một mình. Nó lấp ló đợi mẹ. Tôi dặn Sớm Mai coi lại cửa ngõ, rồi bế Ti lên phòng.
“Mai mẹ đi thăm ba hả mẹ"”
Nép thật chặt vào lòng mẹ, con bé đã ngủ yên từ lâu, nhưng trong mơ, lát lát vẫn kêu: mẹ. Tội nghiệp Ti nhè. Mẹ đây. Mẹ nào có ngủ được. Đêm trước ngày thăm nuôi, lần nào chả vậy.
Tiếng ồn ào dưới đường hắt lên, quán Hương Lan ở góc đường đã đến giờ đóng cửa. Xe cộ ào ạt. Tiếng la ó tục tĩu của người say. Tiếng mời mọc, kéo níu của gái điếm. Đám dân phòng, gồm toán trai tráng trong dân phố luân phiên, lại đi qua, giỡn hớt:
“Chưa dzề sao em" Khuya rồi, còn chờ anh chi"”
“Tiên sư cha anh. Đang ế bỏ cha đây.”
“Dưới kia công an đang rượt kìa.”
“Đây không làm ăn với ngoại quốc. Đéo sợ thằng nào.”
“Mấy con nhỏ này độc thật.”
Ào ào một chặp. Yên dần... Bắt đầu giờ giới nghiêm.
Con đường, ban ngày vùng vẫy với bao tiếng động của dòng sống, giờ mệt nhoài ngủ. Đối diện, nhà thuốc tây quốc doanh, hai cánh cửa sắt khép kín. Trên mỗi bậc cấp đều đã có người nằm ngủ. Tôi nhớ chứ. Người nằm phía trái là một ông già, người chỉ còn xương, da, nhưng tiếng nói rất khỏe. Đêm nào ông cũng ngủ mơ, la hốt hoảng: Cháy. Cháy nhà! Bà con ơi. Cháy. Cháy. Thời gian đầu, tiếng kêu của ông già làm cả khu phố choàng thức, kêu réo: cháy cháy. Rồi họ chạy náo loạn, xem coi cháy ở đâu. Chẳng cháy đâu hết mà đêm nào cũng có tiếng kêu. Riết rồi mọi người quen dần. Đôi lúc tiếng kêu la bãi hoãi của ông già lúc nửa đêm, hay gần về sáng cũng đánh thức người ta dậy, nhưng mọi người cũng chỉ lầm bầm nguyền rủa, rồi tiếp tục ngủ.
Phía bậc cấp bên phải là chỗ ngủ của hai cha con. Người cha khô đét, đứa con trai có tật, chân trước đá chân sau. Suốt ngày ở đâu không thấy, tối họ đem nhau về đó. Thỉnh thoảng, đêm khuya, phải thức dậy vì tiếng la của ông già, cằn nhằn, rồi hung hăng chửi rủa. Người đàn ông thích chửi thì chửi, ông già la xong, ngủ tiếp ngon lành.
Cũng về phía tay mặt, cách vài thước, tới góc phố là nhà hàng Hương Lan. Nơi đây, đêm nào cũng nhộn nhịp, đông khách vì có ca nhạc. Nhà hàng có một dọc hiên lớn, nơi trú ngụ lý tưởng nhất cho những kẻ không nhà. Đêm đêm, dân bụi đời tụ về đây đông lắm. Cả tháng nay, thường xuyên có những cuộc bố ráp, nhóm bụi đời tản mát về nhiều địa điểm khác. Số người ngủ thưa dần, không gây sự chú ý nhiều.
Sát cửa nhà hàng, trên khoảng rộng bằng chiếc chiếu phủ ngang, cả lô người nằm trùm mền kín mít từ chân lên đầu. Hẳn là một gia đình. Sao họ ngủ ngon thế.
Cách xa một khoảng, một người đàn bà nằm ngủ, đắp ngang bụng mảnh mền rách rưới. Phía ngực, mấy cúc áo không còn, lộ cả vú vê. Chắc lạnh, chị ta nằm co người lại.
Khu phố Tự Do, ai cũng biết chị ta. Chị xuất hiện trên đường này khoảng một năm nay. Lúc tỉnh, lúc điên. Thỉnh thoảng chị trần truồng, không mảnh vải che thân, tồng ngồng vậy mà đi qua các đường phố chính. Ngang qua nhà hát lớn, ngang qua tòa đô chính cũ, nay là trụ sở ủy ban nhân dân thành phố, trước mũi người ngoại quốc. Lúc đầu, sau lưng chị ta còn có một đàn con nít đi theo, chọc phá. Nhưng tuồng tích rồi cũng cũ, tài tử chính hết ăn khách, mất luôn đám trẻ hâm mộ. Không hiểu chị ta sống bằng cách nào. Thỉnh thoảng, thấy chị ta diện đồ khá đẹp.
Tôi quay đi. Phải nằm một tí thôi. Nhưng kìa, một bóng người đi tới. Không phải công an. Coi cái vẻ uể oải, rách rưới, lưng đeo chiếu, vai vác túi. Cũng chỉ là dân bụi, lang thang vậy thôi. Hắn tới bên người đàn bà, dừng lại, nhìn.
Người đàn bà mê ngủ, lại trở mình, lăn ngửa. Hai tà áo vẹt ra, phơi bộ ngực xệ. Đầu gã đàn ông cúi xuống. Cúi thấp nữa. Lại trò tập kích nhau của dân bụi đời. Hắn chỉ việc nằm xuống, tung cái chiếu ra. Mọi thứ đã sẳn sàng. Trời đất, cỏ cây, coi chuyện của họ quá thường.
Đã quay mặt, nhưng sự tò mò thắng, tôi lại nhìn xuống. Hắn ta đang quì bên cạnh người đàn bà. Bàn tay hắn đưa lên, sờ sờ trên má chị ta. Bàn tay lần xuống, rà rà trên bộ ngực trống trải. Kìa, hắn quay lại, lấm lét nhìn. Đủ rồi. Đã tới lúc có thể bung cái chiếu của hắn ra. Sao hắn không bung" Có lẽ với họ, cũng chẳng cần che đậy nữa.
Kể như đã ăn chắc.
Ra khỏi hè phố, hắn nhanh nhẹn băng qua đường, khuất khỏi tầm khuôn cửa.
. . .
Anh Mai Thảo,
Anh em mình và các cháu, một thời đã cùng đứng bên khung cửa sổ ấy, nhìn xuống khu phố Tự Do cũ, nhớ Từ và bạn hữu tù đày, trôi dạt.
Chính nơi đó, trong những ngày bị săn đuổi, chúng ta đã nghe, đã nhìn, đã khóc cười với thành phố thân yêu bị đổi tên, đổi đời. Cũng nơi đó, anh đã nghe Nhã kể chuyện người đẹp bụi đời mất quần, đã cười tủm tỉm. Rủa: “Cái cô Nhã này. Khiếp.”
Mười năm.
Anh em mình lại sắp đứng bên nhau.
Thành phố của chúng ta ngày nào, hiện chẳng khác cảnh người đẹp mất quần năm xưa là bao.
Tội nghiệp thành phố.
Tội nghiệp người đẹp.
Tội nghiệp chúng ta.
Không biết tất cả sẽ còn tan tác, lưu lạc đến đâu nữa"
Thôi thì lại viết, lại gửi anh.
Chúng ta cùng nhớ.
Cùng cầu chúc may mắn.
Nhã Ca
Thụy Điển 1989
*
Đường Tự Do
Sách bắt đầu phát hành từ Từ Thứ Hai, 15-5-2006.
Bạn đọc ở xa có thể đặt mua sách bằng thư.
24 mỹ kim kể cả cước phí gửi tận nhà.
Chi phiếu, lệnh phiếu xin đề cho Việt Báo.
Sách 640 trang, giá bán 24 mỹ kim.
Liên lạc phát hành: Việt Báo
(714) 894-2500