Như trên đã viết, bà thuộc một gia đình Do Thái trưởng giả đã hội nhập ở Konigsberg, và lớn lên tại thành phố này. Tò mò triết học nẩy nở ngay từ khi mới 14 tuổi. Đọc "Phê bình lý trí thuần túy" của Kant, làm chủ hai ngôn ngữ cổ La Tinh và Hy Lạp, và năm 16 tuổi thành lập một câu lạc bộ đọc và nghiên cứu văn chương cổ. Trước khi lấy bằng tú tài - như thí sinh tự do tại Konigsberg - bà đã theo học cours của Romano Guardini ở Berlin, và đọc Kierkegaard. Với bà, triết học trở thành phiêu lưu, mạo hiểm. Tại Marbourg (một thành phố nhỏ có một đại học nổi tiếng vì truyền thống lâu đời của nó: 400 năm vào năm 1927), Hannah Arendt trở thành một mục tiêu quyến rũ của các bạn đồng học, với mớ tóc cắt ngắn, và cách ăn mặc đúng "mốt". Những sinh viên tặng cho bà biệt hiệu "Nàng Xanh" (la Verte), do thường mặc chiếc áo dài lịch sự mầu này. Tại câu lạc bộ sinh viên, khi bà cất tiếng nói là những bàn chung quanh như bắt buộc phải im tiếng, giản dị là vậy. Người ta nhận ra trong giọng nói, sự kiêu ngạo, và luôn cả vẻ rụt rè. Hans Jonas, quen Arendt trong một cuộc hội thảo, và sau đó hai người trở thành bạn, kể lại, cô sinh viên này (Arendt) được coi là một "khuôn mặt hiếm quí" giữa những bè bạn. Họ nhận ra ở bà, " sự quyết liệt, bền bỉ, phẩm chất, lòng mong muốn tới được cốt lõi của vấn đề, vẻ sâu xa huyền diệu".
Bà trọ học tại một căn phòng dành cho người làm gần đại học. Đây là nơi gặp gỡ, tiếp đón bạn bè, có những người đã từng tham dự những cuộc bàn luận triết học từ thời kỳ ở Konigsberg hay Berlin. Có một con chuột nhỏ cùng chia sẻ căn phòng với Arendt, và thỉnh thoảng, bạn bè được chứng kiến một cảnh tượng thật dễ thương: chú chuột rón rén bò ra khỏi hang, nhận đồ ăn từ tay người bạn chung phòng của nó.
Chính tại căn phòng này đã diễn ra cuộc gặp gỡ định mệnh, giữa ông hoàng bí mật của tư tưởng, tức Heidegger, ông thầy người Đức, và cô học trò người Do Thái, Arendt.
Arendt đã nghe nói tới Heidegger từ thời kỳ còn ở Berlin. Bà sau này nhìn lại, "Thiên hạ đồn rằng, le bruit courait, tư tưởng đã trở lại với cuộc sống, rằng những kho tàng văn hóa của quá khứ, mà người ta tưởng đã chết, nay tìm lại được lời nói.... Có một vị giáo sư...."
Cô học trò đã tiếp ông thầy của mình tại căn phòng trên, khởi từ tháng Hai năm 1924, và cuộc gặp gỡ này được Arendt giữ kín, ngay cả với những người bạn thân nhất. Hai tháng trước đó, ông thầy đã tìm thấy "niềm đam mê của đời mình", như ông thú nhận với vợ, ở cô học trò, khi ông mời cô tới văn phòng, và sau đó, không thể nào quên được hình ảnh của cô: "Nàng mặc áo choàng che mưa, chiếc mũ để một mầu đậm trên khuôn mặt, và thỉnh thoảng nói thật nhỏ một tiếng "phải" (oui) hoặc "không phải" (non).
Arendt biết, không thể nào không bị quyến rũ bởi ông thầy mà nàng kính phục. Ngày 10 tháng Hai, Heidegger viết cho Arendt lá thư đầu tiên: "Cô Arendt quí mến." Giữ một khoảng cách đáng kinh trọng, ông thầy bảo đảm lòng chân thành của thầy, đồng thời ca ngợi những đức tính vừa trí thức vừa đạo đức của Arendt, cuối cùng đề nghị cô học trò, là thầy sẽ giúp trò luôn trung thực với chính nàng."
Luôn trung thực với chính nàng. Trong cuốn "Arendt and Heidegger: The fate of the political" (nhà xb Đại học Princeton), tác giả Dana Villa đã đọc lại cả hai Arendt và Heidegger, và đưa ra những ý tưởng mới mẻ, táo bạo, nhằm sửa lại một số quan niệm sai lầm của những nhà phê bình, cũng như những người ủng hộ thầy và trò. Tác giả cuốn sách cho rằng, Arendt chấp nhận cuộc thách đố, mà Nietzsche và sau đó là Heidegger đã chối bỏ, một cuộc thách đố liên quan tới chính trị học, "sau" (after) cái chết của siêu hình học; từ đó, vẫn theo Dana Villa, Arendt đã xuất hiện như lý thuyết gia chính trị "hậu siêu hình, hậu hiện đại" đầu tiên đã vượt qua những vướng mắc do đoạn tuyệt với truyền thống, mà hậu quả là sự sụp đổ những mối tương quan về giá trị, cứu cánh, lẽ ở đời của chúng ta. Từ quan niệm "vô gia cư" (homeless) của Heidegger, Arendt đã tạo dựng nên tính mất gốc (the kind of rootlessness). Đây là điều những chế độ toàn trị đòi hỏi, nhằm hủy diệt thực tại, và có được sự thần phục hoàn toàn [của dân chúng]. Bà cũng chịu ảnh hưởng của ông thầy, về những phát hiện của ông đối với chủ nghĩa hư vô, kỹ thuật, sự tương phản giữa "thực" (authenticity) và không thực. Một khi tách triết học của Heidegger ra khỏi những quan điểm chính trị của ông, Arendt từ đó có thể khai triển những nghiên cứu mang tính hiện sinh của bà, và tránh được tuyệt lộ (cul de sac), tuyệt lộ này đã dẫn Heidegger tới với chủ nghĩa Quốc Xã.
(còn tiếp)
Jennifer Tran