Ông William Yates, Phó Giám đốc Điều Hành thuộc Phòng Công Dân Hoa Kỳ Và Các Dịch Vụ Di Trú (gọi tắt là USCIS), trực thuộc Bộ Nội An, vừa phổ biến một bản ghi chú liên quan đến việc gia hạn Chương Trình Di Dân Đặc Biệt Cho Những Người Hoạt Động Tôn Giáo, và những yêu cầu về tình trạng miễn thuế của các tổ chức tôn giáo.
Chương Trình Di Dân Đặc Biệt Cho Những Người Hoạt Động Tôn Giáo - là chương trình cho phép "những di dân đặc biệt" được nhập cảnh Hoa Kỳ, gồm những tu sĩ, hay các nhân viên tôn giáo sang Hoa Kỳ để làm việc hay tu tập vấn đề tôn giáo. Chương trình này trước đây được dự trù sẽ chấm dứt vào ngày 30 tháng 9 năm 2003. Hạn kỳ này không áp dụng với những tu sĩ cùa một hệ phái tôn giáo. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2003, Chương trình này đã được gia hạn đến ngày 30 tháng 9 năm 2008. Vào ngày 18 tháng 7 năm 2003, cơ quan di trú đã gửi một bản thông báo cho biết tất cả những Đơn Di Dân Đặc Biệt Cho Những Người Hoạt Động Tôn Giáo bị ảnh hưởng bởi ngày hết hạn kể trên, sẽ được giải quyết nhan chóng. Nhưng bản thông báo vừa qua của ông Yates cho biết vì sự gia hạn của chương trình đặc biệt này, những đơn bảo lãnh theo diện tôn giáo kể trên không cần phải vội vàng giải quyết.
Điều quan trọng thứ hai trong bản ghi chú của ông Yates liên quan đến tình trạng miễn thuế của các tổ chức tôn giáo. Vấn đề này là mối quan tâm đặc biệt đối với các tổ chức tôn giáo trên nước Mỹ, phát xuất từ những diễn giải rất khắt khe của cơ quan di trú về những luật lệ liên quan đến các tổ chức tôn giáo. Điều luật "8 CFR 204.5(m)(2) định nghĩa một tổ chức tôn giáo thật sự là một tổ chức "có liên hệ mật thiết" đến hệ phái tôn giáo, và được miễn thuế theo điều luật 501 (c )(3) của Quy Ước Thuế Vụ. Đòi hỏi này được lập lại trong điều "8 CFR 204.5(m)(3)(i) và bổ túc thêm về bằng chứng cho thấy cơ sở tôn giáo cần tuyển dụng người phải là một tổ chức bất vụ lợi khi nộp đơn bảo lãnh cho một thành viên tôn giáo.
Điều luật 501©(3) của Quy Ước Thuế Vụ có một số phân loại về các tổ chức được miễn thuế. Các tổ chức tôn giáo hội đủ quy chế này được ghi trong điều luật số 170(b)(1)(A), như nhà thờ chẳng hạn. Các tổ chức khác có thể hợp lệ nếu họ có thể xác lập những yếu tố về tôn giáo của tổ chức họ chỉ nhằm mục đích tôn giáo thuần túy và hoạt động theo những nguyên tắc về niềm tin tôn giáo. Bằng chứng về diện được miễn thuế có thể là một lá thư được ký bởi Cơ quan thuế vụ IRS, xác nhận rằng tổ chức này được miễn thuế vì là tổ chức tôn giáo theo điều luật 501(c )(3), hoặc chứng từ mà cơ quan thuế vụ IRS đòi hỏi để xác lập sự hợp lệ, và chứng từ xác lập bản chất tôn giáo của tổ chức này, chẳng hạn như đã điền đơn 1023 của sở thuế, một bản sao điều lệ của tổ chức phù hợp với những đòi hỏi của sở thuế,và nói về mục tiêu của tổ chức, những tờ quảng cáo về tổ chức và những văn phẩm nói về mục đích và sinh hoạt của tổ chức.
Hỏi Đáp Di Trú:
- Hỏi: Dì tôi đang ở Mỹ với chiếu khán B-1. Tôi không rõ diện B-1 như thế nào mà chỉ biết dì tôi sang Mỹ để tham dự các khóa hướng dẫn tu học Phật pháp. Nhưng có một ngôi chùa khác muốn mời dì tôi ở lại lâu hơn để giúp việc thuyết pháp và hướng dẫn việc tu học, liệu dì tôi có thể xin chuyển diện cư trú được không"
- Đáp: Dì của bạn sang Mỹ theo diện nghiệp vụ ngắn hạn, dù với mục đích tôn giáo, nên được ghi trên chiếu khán là B-1. Nếu hội đủ những yêu cầu của Sở Di Trú, dì của bạn có thể được gian hạn thời gian cư trú từ 3 năm đến 5 năm. Vấn đề này tương đối phức tạp, bạn nên nhờ các văn phòng di trú chuyên nghiệp giúp đỡ.
- Hỏi: Cha mẹ tôi ly dị khi tôi còn nhỏ, và tôi sống với mẹ tôi. Sau đó, cha tôi lấy vợ khác (lúc tôi khoảng 8 tuổi). Tôi có thể, với tư cách là công dân Mỹ trên 21 tuổi, bảo lãnh cho cả cha và mẹ kế của tôi sang Hoa Kỳ được không"
- Đáp: Bạn có thể nộp đơn bảo lãnh cho cha hay mẹ kế. Cha hay mẹ kế đều được xem là cha mẹ "ruột" đối với Sở Di Trú, nếu tình trạng kết hôn của mẹ ruột (hay cha ruột) với người hôn phối sau này xảy ra lúc người con dưới 18 tuổi.
- Hỏi: Vợ tôi đã nộp đơn xin giấy tái nhập cảnh (reentry permit) Hoa Kỳ vào tháng Giêng năm 1998 và sau đó đi về Việt Nam khi giấy này chưa được chấp thuận. Khi vợ tôi đang ở Việt Nam thì nhận được giấy chấp thuận tái nhập cảnh. Sau đó, vợ tôi đã trở về Mỹ một tuần trước khi giấy tái nhập cảnh hết hạn. Trên thực tế, vợ tôi đã ở Việt Nam trên hai năm. Tôi muốn hỏi: vợ tôi có thể xin nhập tịch Hoa Kỳ không" Có người bảo rằng phải đợi 4 năm hay 5 năm gì đó! Riêng tôi vẫn chỉ là Thường trú nhân.
- Đáp: Vợ của bạn sẽ phải hội đủ một số đòi hỏi như sau:
1/ Phải ở ít nhất 90 ngày nơi mà bà nộp đơn vào quốc tịch.
2/ Phải ở ít nhất hai năm sáu tháng, tổng cộng thời gian cư trú tại Hoa Kỳ trước khi nộp đơn.
3/ Không vi phạm điều luật cư trú liên tục (không ở Hoa Kỳ liên tục hơn 6 tháng được xem là vi phạm điều luật này và vắng mặt trên một năm chắc chắn sẽ gặp trở ngại, ngoại trừ chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận đơn xin bảo vệ quyền cư ngụ tại Hoa Kỳ trước khi vợ bạn về Việt Nam).
Ngày chấp thuận trên giấy tái nhập cảnh không liên quan đến vấn đề kể trên. Điều quan trọng là những ngày trở lại và rời khỏi Hoa Kỳ.
Quý độc giả quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 1110AM, 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc quý vị liên lạc với một trong những văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933, San Jose (408) 294-3888, Oakland-San Francisco: (510) 533-8228, Sacramento (916) 393-3388 hay qua Email: info@rmiodp.com.