Trong chiến tranh Việt Nam, căng thẳng nhất vào giai đoạn giữa năm 1960 cho tới đầu năm 1970, cuộc chiến tranh này trở thanh mẫu thức dựa vào sự tương tác của kinh tế như là "một nền kinh tế của súng và bơ" (guns and butter economy). Cuộc chiến tranh phản ảnh sự thực như quốc gia đã theo đuổi một nghị trình xã hội có` chi tiêu cao, đồng thời có những kinh phí quốc phòng vĩ đại để chế tạo các loại vũ khí tân kỳ cho chiến tranh.
Ngược lại, cuộc chiến tranh Vùng vịnh được biết là đánh nhau để "gói hàng rời kệ kho" (Off-The-Shelf), bởi vì hầu hết súng đạn xử dụng đã chứa đầy kho, nay bị thặng dư sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt. Mức độ cao về chi tiêu của chính quyền liên bang Hoa kỳ cho quốc phòng và không quốc phòng vào cuối năm 1960 đã làm tăng mạnh nhu cầu tập trung trong lãnh vực tư và đưa ra một giải quyết lớn cho áp lực lạm phát đã được giải tỏa năm 1970. Sau đó các nỗ lực đối với sự lạm phát làm ngột ngạt, đã xâm chiếm việc hoạch định chính sách kinh tế vào năm 1980.
Ngược lại, chiến tranh Vùng vịnh đã làm nẩy sinh sự suy thoái kinh tế, hậu quả của sự đột nhiên mất tin tưởng ngay giai đoạn sơ khởi của cuộc vận chiến "Lá chắn của Chiến dịch Sa mạc" (Operation Desert Shield). Nhưng trong đó phần lớn các chiến cụ cần thiết đã nằm tại Saudi Arabia đều đã nằm trên tay, chúng không tạo ra cái bong bóng lạm phát nổi lên như chiến tranh Việt Nam và cũng chẳng gây ra một sự nguy hại lớn cho cán cân tài chánh của Hoa kỳ.
Thực sự, hầu hết các chiến cụ và đạn dược được dùng trong giai đoạn lâm chiến của chiến tranh "Hành quân Bão tố Sa mạc" được tung ra ngày 17/1/1991 và chấm dứt vào ngàu 28/2/2001 cuối cùng đã được các quốc gia đồng minh trả tiền cho. Chiến tranh này đã làm tăng tiền cho các chương mục quốc gia của Hoa kỳ.
Thống kê về các chương mục này cho thấy Hoa kỳ đã nhận tiền ngoại viện sổi 9,8 tỷ Mỹ kim hoàn lại năm 1991, sau Thế chiến II, chỉ đúng vào thời gian này Hoa kỳ mới chấm dứt việc nhận lại tiền ngoại viện hoàn lại. Năm 1989, năm trước khi Iraq lấn chiếm Kuwait và khiến cho Hoa kỳ phải đáp ứng, số tiền thực sự cho cho quốc phòng của Hoa kỳ tính ra là 444, 5 tỷ Mỹ kim, chiếm 6,6% Tổng Sản Luợng trong nước. Nhưng chiến tranh không làm gì cả để đẩy những con số chi tiêu này xuống 443,2 tỷ vào năm 1990, cũng chiếm 6,6 % tổng sản lượng của Hoa kỳ và 438,5 tỷ Mỹ kim vào năm 1991 hay san sẻ 6,8% của toàn thể Tổng sản lượng Hoa kỳ trong nền kinh tế đãï bị đình đốn vì kinh tế suy thoái.
Mọi việc đã thay đổi trong 10 năm qua. Chi tiêu thực sự cho quốc phòng đã giảm xuống còn 64 tỷ Mỹ kim sau năm 1991, trong khi tổng sản lượng thực của Hoa kỳ đã gia tăng 2,66 ngàn tỷ Mỹ kim, cho thấy sự chi phí quốc phòng chỉ chiếm có 3,9% của tổng toán. Cái quan trọng hơn nữa, trong quí hai của năm nay, các số liệu cho thấy ngân sách của kho vũ khí Hoa kỳ đã có một sự giảm hẳn và chỉ thêm có 54 tỷ Mỹ kim đối với 62,8 tỷ Mỹ kim vũ khi đã đem ra tiêu dùng.
Nói theo cách khác, Hoa kỳ đang nằm trong tình trạng kém hơn năm 1990 để lâm chiến trong cuộc "Chiến tranh tháo khoán hàng trên kệ kho" (a war Off-The-Shelf). Cuộc chiến chống khủng bồá hiện khác về cả hai thang độ và những chiến cụ đã được dùng trong cả hai cuộc chiến tranh, tại Việt Nam và tại Vùng vịnh trước đây. Không có việc đổ bộ lính hàng loạt và ào ạt như trong chiến tranh tại Việt Nam và tại Vùng vịnh.
Các phi đạn và các trái bom thông minh sẽ tiếp tục phát triển và được tung ra, nhưng nguyên giám đốc kiểm soát vũ khí Kenneth Adelman gần như đang nhấn mạnh về loại chiến tranh mới và dùng từ ngữ "Tài trí vô hạn định". Các phương tiện chiến tranh bao gồm sự gia tăng máy móc theo rõi và thu thập tin tức tình báo, gồm có kỹ thuật theo rõi bằng vệ tinh được cải tiến để có thên hệ thống computer và kỹ thuật bảo vệ hạ tầng cơ sở computer và truyền tin liên lạc của quốc gia. Những loại chiến cụ quốc phòng ưu tú này hiện nay không có trên kệ kho. Hầu hết các bộ phận của các chiến cụ mới này cần phải có các chương trình chi tiền và sẽ giúp bốc ra khỏi nền kinh tế đang bị èo ọt.
Bài diễn từ chính từ trong thời gian này đưa ra sự mong ước của Hoa kỳ để chịu chi tiền như thế, đồng thời cho biết các khoản thặng dư của ngân sách sẵn sàng dùng để tài trợ cho các chương trình này.