Hôm nay,  

Peter Drucker, Cha Đẻ Môn Quản Trị Học

24/11/200500:00:00(Xem: 10796)
-Ngày 11-11 vừa qua, một ngôi sao đã tắt trong vòm trời kiến thức nhân loại, đó là ông Peter Drucker, người cha đẻ của môn quản trị học tại Hoa Kỳ và thế giới. Việt Nam có thể học những gì từ Drucker"
Xưa nay thường đề cập tới loại vấn đề sẽ chi phối tương lai, Diễn đàn Kinh tế đài RFA kỳ này đặc biệt nói tới nhân vật vừa khuất bóng qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa vì những gì ông Drucker để lại vẫn có thể soi sáng tương lai cho chúng ta. Bài do Việt Long thực hiện sau đây.
Hỏi: Ngày 11 tháng 11 vừa qua, ông Peter Drucker vừa tạ thế tại Hoa Kỳ. Biến cố này được giới kinh doanh lẫn kinh tế khắp nơi nhắc nhở rất nhiều. Một số người còn hỏi vì sao với những cống hiến liên tục của ông trong hơn 60 chục năm, đáng lẽ Drucker phải được giải Nobel chứ. Xin đề nghị ông là ta sẽ đề cập tới nhân vật đặc biệt này qua câu hỏi đầu tiên đó…
-- Thứ nhất, người ta chỉ có giải Nobel về Kinh tế học và mới chỉ có từ năm 1969. Thứ hai, nếu có một giải Nobel về Quản trị học thì năm nào Peter Drucker cũng lãnh giải ấy! Lý do thứ hai này do một học giả về quản trị và là một trong các chủ biên của tạp chí chuyên đề về kinh doanh là tờ Fortune đã nêu ra tuần qua. Điều ấy cho thấy kích thước và ảnh hưởng của nhân vật kỳ lạ này. Ông Drucker sinh năm 1909 tại Vienna của nước Áo và mất tại California của Hoa Kỳ tám ngày trước khi mừng thượng thượng thọ ở tuổi 96. Ông là ngôi sao cuối cùng mọc lên từ xứ Áo vào thế kỷ trước và đã tỏa sáng khắp năm châu sau đó.
Hỏi: Vì sao là một ngôi sao của xứ Áo mà tỏa sáng khắp năm châu" Điều ấy có gì lạ chăng"
-- Peter Drucker sinh tại Vienna và chán ghét chế độ Đức quốc xã mà di tản qua Mỹ năm 1937 và là một trong nhiều nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX đã từ bỏ Vienna để gieo rắc kiến thức khắp năm châu và cống hiến nhiều lý luận hữu ích cho nhân loại.
Hỏi: Nói vậy tức là đã có một trào lưu tư tưởng hay kiến thức xuất phát từ Vienna hay sao"
-- Tôi thiển nghĩ rằng các sử gia hay xã hội học của thế giới, và nhất là của Việt Nam, cần tìm hiểu hiện tượng hy hữu ấy. Người ta có nhà tâm phân học Sigmund Freud, có triết gia về khoa học Karl Popper, có hai kinh tế gia nổi tiếng của trường phái tự do là Ludwig von Mises và Friedrick Hayek, có nhà ngữ học Ludwig Wittgenstein, nhà sinh học Konrad Lorenz, nhà sử học về nghệ thuật Ernst Gombrich, nhà soạn nhạc Arnold Schoenberg, nhà tâm phân học về nhi đồng là Bruno Bettelheim... Họ đều xuất hiện tại Vienna vào cuối thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20 rồi di tản qua Tây Âu, đa số nhập tịch Hoa Kỳ, trở thành nhóm người làm thay đổi tư tưởng đương thời trong từng địa hạt riêng của họ. Drucker là đợt sóng cuối và còn ảnh hưởng qua thế kỷ 21 này…
Hỏi: Ông có giải thích được phần nào hiện tượng hy hữu ấy hay không" Mà vì sao ông cho là Việt Nam cần tìm hiểu hiện tượng này"
-- Vienna từng là Kinh đô của Đế quốc Áo Hung, là trung tâm văn hóa nghệ thuật và kiến thức rực rỡ Âu châu. Khi Đế quốc ấy bị bại trận vì sức tấn công của nước Phổ, là nước Đức, vào năm 1866, Vienna trở thành kinh đô không đế quốc, một cái đầu quá lớn cho một xứ quá nhỏ. Nhiều thế hệ trí thức và học giả hết đất dụng võ, hết nơi thi thố tài năng, họ xoay về nội tâm, nghiên cứu về con người và trở thành những nhà tư tưởng độc đáo. Thế rồi khi Hitler cầm quyền, chủ nghĩa phát xít độc đoán dẫn tới hiện tượng xuất não và Vienna viện trợ cho thế giới những nhà tư tưởng vô địch về quyền tự do, về nhân vị, về giá trị của con người.
Hỏi: Ngoài trường hợp Vienna, trong lịch sử có còn những trường hợp nào tương tự như vậy không"
-- Thưa có, năm 1453, khi Constantinople bị thất thủ trước đà xâm lược của Đế quốc Ottoman theo Hồi giáo, trí thức nơi đây di tản qua nơi khác và phần nào gây nên phong trào Phục hưng tại Ý rồi làm thay đổi Âu châu trong mấy thế kỷ sau. Vienna và nhiều thủ đô Đông Âu sau Thế chiến II có thể là những trường hợp tương tự: bạo quyền ruồng đuổi trí tuệ qua xứ khác trong khi xứ sở lụn bại dần vì sự độc đoán của nó. Hitler có thể là người yêu nước theo kiểu của ông ta, một lối yêu nước tự sát. Cũng nhờ vậy mà Peter Drucker mới thành ngôi sao sáng của nhân loại.
Hỏi: Trở về nhân vật đặc biệt này, ông Drucker đã cống hiến những gì mà ta cần ghi nhớ"
-- Peter Drucker tốt nghiệp Đại học tại Vienna, Frankfurt rồi London. Xuất thân Tiến sĩ Công pháp và Luật quốc tế, ông là kinh tế gia trong một ngân hàng Anh rồi qua Mỹ năm 1937 mở đầu sự nghiệp dạy học, trước tiên là về chính trị và triết học, sau đấy là giáo sư môn quản trị học tại Phân khoa Kinh doanh của Đại học New York trong 21 năm. Từ 1971 đến khi mất, ông về dạy tại một ngôi trường nhỏ là Đại học Claremont ở California và năm 1984, phân khoa Quản trị của trường này mang tên ông - đúng cách "Sơn tiên Thủy long", núi không cần cao cũng có tiên ở, nước chẳng cần sâu cũng có rồng nằm. Năm 2002, ông được Tổng thống Bush trao tặng Huân chương Tự do, huy chương cao quý nhất của Mỹ do Tổng thống John Kennedy lập ra. Thực ra, ông là cha đẻ môn quản trị học, ân nhân của nhiều doanh gia quốc tế, bậc thầy của nhiều thế hệ giáo sư quản trị tại Mỹ hay Nhật, là tư vấn cho các doanh nghiệp lớn nhất, cho các cơ quan chính phủ và rất nhiều tổ chức thiện nguyện xã hội sau này.
Hỏi: Giáo sư Peter Drucker có để lại nhiều trứ tác gì cho đời sau tham khảo không"

-- Peter Drucker viết cuốn sách đầu tiên về quản trị năm 1939 và cho đến khi tạ thế đã để lại 39 cuốn, được phiên dịch ra khoảng 50 ngôn ngữ, trong đó có 15 cuốn về quản trị, 13 cuốn về kinh tế, xã hội và chính trị, hai cuốn tiểu thuyết, một cuốn tự truyện và một cuốn biên khảo về hội họa Nhật. Ông thực hiện tám bộ phim quảng bá kiến thức về quản trị, là bỉnh bút của nhật báo the Wall Street Journal và tập san chuyên đề Harvard Business Review cùng nhiều tạp chí khác. Như vậy, ông là một nhà giáo, một bậc quân sư và một nhà văn đa diện, một triết gia về xã hội. Người ta tôn vinh ông là một "nhà tư tưởng thời Phục hưng", "Renaissance Man", nghĩa là bộ óc uyên bác đa năng. Đấy là tiểu sử chính thức của Peter Drucker.
Hỏi: Ông nói vậy nghĩa là còn những đoạn tiểu sử không chính thức hay sao"
-- Thưa không, đấy chỉ là chúng ta kể lại ngắn gọn sự nghiệp của một con người xuất chúng, còn lại, có không biết bao nhiêu là tiểu truyện về nhân vật này, mà đặc biệt nhất là viễn kiến hay khả năng tiên tri của ông ta. Người sáng lập ra môn quản trị học của một xứ tự hào về thành tích quản trị và kinh doanh thì tất nhiên phải có những cống hiến độc đáo và dự báo chính xác, chứ không dễ gì trở thành bậc thầy của nhiều thế hệ doanh gia hay quản trị viên được.
Hỏi: Ông nói đến quản trị và kinh doanh như hai chuyện khác biệt, vì sao lại như vậy"
-- Việt Nam ta còn nhiều ngộ nhận, tôi xin đơn cử một thí dụ bản thân đã gặp. Một nhà kinh tế của Hà Nội, có thời làm Phó Thủ tướng với thành tích lạm phát hơn 700%, mà gần đây còn cho rằng kinh tế học là tột đỉnh của các ngành kinh doanh. Người ta không phân biệt kinh tế với kinh doanh và quản trị. Lại không thấy sự khác biệt giữa quản trị, là tổ chức và điều hành một cơ quan, một tập thể, cho một mục tiêu nhất định - thí dụ như một nhà thương, một đại học hay một nha sở chính quyền - với môn kinh doanh là tổ chức quản trị một doanh nghiệp có mục tiêu kiếm lời. Vào lúc cuối đời, sau khi đã cố vấn về kinh doanh cho nhiều tổ hợp lớn của Mỹ, ông Peter Drucker thiên về tư vấn quản trị cho nhiều tổ chức vô vụ lợi và đề cao vai trò xã hội rất cần thiết của các tổ chức ấy trong một hình thái xã hội đang có thay đổi lớn lao.
Hỏi: Thế còn bước đầu, vì sao một giáo sư triết học và chính trị lại là người sáng lập môn quản trị học"
-- Khởi đầu, vào năm 1942, khi đọc cuốn "Tương lai của con người công nghiệp" của Drucker, ông Alfred Sloan, doanh gia khét tiếng cầm đầu công ty General Motors, đã tìm gặp vị giáo sư về chính trị và triết học này để nhờ nghiên cứu về hãng GM của mình. Từ đấy, môn quản trị học xuất hiện tại Mỹ, vì Drucker không chỉ nghiên cứu và cố vấn cho việc tản quyền và cải tiến kinh doanh mà còn hệ thống hóa sự hiểu biết ấy cho mọi người cùng biết, cùng học hỏi.
Cũng từ đấy, trong 60 năm liền, ông là học giả đa bác, phổ biến kiến thức ra nhiều địa hạt và làm thay đổi tư duy, hành động và nếp sống của rất nhiều người, mà chẳng cần cải tạo hay ép buộc ai cả. Ông ta có biệt tài là chịu nghe và chịu nhận xét, với con mắt tinh tế khác thường, và sau cùng nêu loại câu hỏi bất ngờ như một công án Thiền tông, làm giới quản trị viên phải chưng hửng và duyệt xét lại toàn bộ tư duy và tập quán để tự tìm ra giải pháp hoàn hảo hơn.
Hỏi: Ông có nói đến viễn kiến hay khả năng tiên tri của Peter Drucker, xin ông đơn cử vài thí dụ cho thính giả cùng rõ được không"
-- Từ mươi năm nay, ta nghe nói đến nền "kinh tế tri thức" đi cùng cuộc cách mạng về công nghệ thông tin như một bước ngoặt lịch sử. Trước đấy, bị ảnh hưởng bởi kiến thức thô thiển của Marx về bước đầu công nghiệp hóa và của Lenin về vị trí công nhân thợ thuyền trong tiến trình sản xuất dây chuyền, người ta nói đến đấu tranh giai cấp hay sứ mạng tiên tiến của giai cấp công nhân. Ngay từ giữa thế kỷ trước, khoảng 1950, Peter Drucker đã nói công nhân phải là tài sản quý, chứ chẳng là món nợ; cũng từ năm 1950 ông nói đến vai trò của khách hàng, của thị trường toàn cầu và cách tổ chức doanh nghiệp đa quốc; từ năm 1970 ông tiên báo hình thái tổ chức và kinh doanh mới, với vai trò của kiến thức, của "lao động tri thức" sẽ thay thế dần công nhân thợ thuyền và đẩy lui ảnh hưởng của các nghiệp đoàn. Đấy là một vài thí dụ.
Hỏi: Những điều ấy có liên hệ gì tới các bài toán quản trị hay kinh doanh mà Việt Nam đang cần biết không"
-- Từ đấy, Peter Drucker cảnh báo về lỗi lầm mà tôi cho là lãnh đạo các nước chậm phát triển như Việt Nam ngày nay, ưa mắc phải. Rằng các yếu tố sản xuất cổ điển như đất đai, lao động hay tư bản vốn liếng, chính là những lực cản cho sản xuất và sự tiến hóa. Tri thức mới là yếu tố quyết định. Cho quy trình sản xuất hiện hành thì tri thức dẫn tới năng suất; cho những gì chưa hiện hữu thì tri thức dẫn tới sáng tạo. Mà tri thức cần nhất là tự do tư tưởng.
Drucker còn có một công thức lạ, là các định chế chính trị hay xã hội chính là loài sinh vật thủ cựu trong sự ổn định giả tạo, vì chỉ nghĩ đến bảo vệ thành quả quá khứ chứ không kịp ứng biến với môi trường. Trong khi về thực chất thì doanh nghiệp là các "trung tâm gây loạn" vì phải thường xuyên tự xét lại thành tích để thay đổi, nếu không là bị lỗ, hoặc bị phá sản. Chẳng biết ông ta có biết Dịch lý không nhưng ưa nói điều nghịch lý mà đúng! Ở một xứ tự do, ông ta là bậc thầy, ở một xứ độc tài hôn ám, ông ta có thể gặp số phận của Khuất Nguyên, Chu Văn An hay Nguyễn Trường Tộ, không thất nghiệp, lên máy chém hay vào tù thì cũng bị tập trung cải tạo. Nói vậy không ngoa đâu vì khi còn đang học tại Đức, cách nhau bốn năm, hai tiểu luận của cậu sinh viên Drucker đã bị chế độ Hitler tịch thu và đốt sạch!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.