HÀ NỘI (SCMP).- Theo các nhóm hoạt động xã hội thì việc một số lớn phụ nữ bị ép buộc làm gái mại dâm, với Cambodia, Trung quốc và Đài loan như những thị trường đang lên, gây ra một số vấn đề nghiêm trọng trong vùng, theo tin của báo South China Morning Post.
Nhiều chứng cớ rõ ràng cho rằng Việt nam là mục tiêu chính của nạn mại dâm quốc tế được đề cập tới khá nhiều nhưng ít nhứt có ba tổ chức quốc tế muốn có những trừng phạt gắt gao hơn và một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các chính phủ trong vùng để bài trừ nạn mại dâm.
Các sự quan tâm đó đã tăng gia trong tuần nầy khi các con số được tiết lộ cho biết có hơn 12.000 thiếu nữ Việt nam “kết hôn” với người Đài loan giữa những năm 1996 và 1998, và trong số đó gần 50% cho rằng họ phải lấy chồng như vậy vì lý do kinh tế.
Theo một cuộc nghiên cứu chính thức được báo “Tuổi trẻ” đề cập tới hôm thứ năm, các cuộc hôn nhân nầy đã được “thu xếp” với những số tiền có khi lên tới 12.000 mỹ kim, khiến người ta quan tâm tới sự liên hệ giữa những “cô dâu được hỏi mua” đó với nạn mại dâm.
Bà Vũ ngọc Bình, của cơ quan Unicef, tuyên bố rằng “những cuộc hôn nhân giả dối và những cô đâu được hỏi mua” thường được dùng để ngụy trang đưa phụ nữ làm việc cho những nhà chứa gái ở hải ngoại, và những nạn nhân của việc buôn bán nầy khó có thể giải thích trước tòa rằng họ là nạn nhân”.
Bà còn nói tiếp: “Những lợi tức lớn có thể thu được bằng cách ép buộc phụ nữ đi vào đường mại dâm, và số người làm việc nầy ít khi bị tố cáo phạm tội ác hơn là những hoạt động tội phạm khác, bởi vì có nhiều quốc gia trục xuất ngay các nạn nhân và do đó thiếu những nhân chứng có giá trị”.
Các chuyên viên về vấn đề nầy cho rằng mặc dầu hiện có những điều thỏa hiệp, việc đưa ra một hệ thống pháp lý trong nước để bài trừ nạn mại dâm nầy rất khó khăn vì nhiều phụ nữ Việt nam bước vào việc hành nghề mại dâm ở ngoại quốc một cách tự nguyện với hy vọng làm tiền nhanh chóng rồi thoát ra khỏi kỹ nghệ đó.
Một nhân viên của tổ chức IOM nói rằng có nhiều phụ nữ Việt nam đang chọn nghề mại dâm ở Cambodia. Nhưng trong nhiều trường hợp, các chủ chứa tịch thu tất cả giấy tờ nhập cảnh của họ và bắt họ phải trả những số tiền hoa hồng cắt cổ.
Bà Bình cho rằng sự phồn thịnh của một vài nơi ở Á châu đã khuyến khích việc đòi hỏi việc mại dâm và tổ chức IOM cho rằng Trung quốc hiện là thị trường đang lên của những cuộc hôn nhân được thu xếp.
Số đàn ông nhiều hơn đàn bà ở Trung quốc là từ 15 tới 20 triệu và với một nền kinh tế đang lên, Trung quốc trở thành một nơi có nhiều vụ buôn lậu phụ nữ và hôn nhân với những “cô dâu được hỏi mua” trước.
Trung quốc, Cambodia và Thái lan đã gia nhập một dự án của LHQ về việc bài trừ nạn buôn bán phụ nữ nhưng Việt nam, Ai lao và Miến Điện thì cho biết còn đang nghiên cứu sáng kiến nầy.
Nhiều chứng cớ rõ ràng cho rằng Việt nam là mục tiêu chính của nạn mại dâm quốc tế được đề cập tới khá nhiều nhưng ít nhứt có ba tổ chức quốc tế muốn có những trừng phạt gắt gao hơn và một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các chính phủ trong vùng để bài trừ nạn mại dâm.
Các sự quan tâm đó đã tăng gia trong tuần nầy khi các con số được tiết lộ cho biết có hơn 12.000 thiếu nữ Việt nam “kết hôn” với người Đài loan giữa những năm 1996 và 1998, và trong số đó gần 50% cho rằng họ phải lấy chồng như vậy vì lý do kinh tế.
Theo một cuộc nghiên cứu chính thức được báo “Tuổi trẻ” đề cập tới hôm thứ năm, các cuộc hôn nhân nầy đã được “thu xếp” với những số tiền có khi lên tới 12.000 mỹ kim, khiến người ta quan tâm tới sự liên hệ giữa những “cô dâu được hỏi mua” đó với nạn mại dâm.
Bà Vũ ngọc Bình, của cơ quan Unicef, tuyên bố rằng “những cuộc hôn nhân giả dối và những cô đâu được hỏi mua” thường được dùng để ngụy trang đưa phụ nữ làm việc cho những nhà chứa gái ở hải ngoại, và những nạn nhân của việc buôn bán nầy khó có thể giải thích trước tòa rằng họ là nạn nhân”.
Bà còn nói tiếp: “Những lợi tức lớn có thể thu được bằng cách ép buộc phụ nữ đi vào đường mại dâm, và số người làm việc nầy ít khi bị tố cáo phạm tội ác hơn là những hoạt động tội phạm khác, bởi vì có nhiều quốc gia trục xuất ngay các nạn nhân và do đó thiếu những nhân chứng có giá trị”.
Các chuyên viên về vấn đề nầy cho rằng mặc dầu hiện có những điều thỏa hiệp, việc đưa ra một hệ thống pháp lý trong nước để bài trừ nạn mại dâm nầy rất khó khăn vì nhiều phụ nữ Việt nam bước vào việc hành nghề mại dâm ở ngoại quốc một cách tự nguyện với hy vọng làm tiền nhanh chóng rồi thoát ra khỏi kỹ nghệ đó.
Một nhân viên của tổ chức IOM nói rằng có nhiều phụ nữ Việt nam đang chọn nghề mại dâm ở Cambodia. Nhưng trong nhiều trường hợp, các chủ chứa tịch thu tất cả giấy tờ nhập cảnh của họ và bắt họ phải trả những số tiền hoa hồng cắt cổ.
Bà Bình cho rằng sự phồn thịnh của một vài nơi ở Á châu đã khuyến khích việc đòi hỏi việc mại dâm và tổ chức IOM cho rằng Trung quốc hiện là thị trường đang lên của những cuộc hôn nhân được thu xếp.
Số đàn ông nhiều hơn đàn bà ở Trung quốc là từ 15 tới 20 triệu và với một nền kinh tế đang lên, Trung quốc trở thành một nơi có nhiều vụ buôn lậu phụ nữ và hôn nhân với những “cô dâu được hỏi mua” trước.
Trung quốc, Cambodia và Thái lan đã gia nhập một dự án của LHQ về việc bài trừ nạn buôn bán phụ nữ nhưng Việt nam, Ai lao và Miến Điện thì cho biết còn đang nghiên cứu sáng kiến nầy.
Gửi ý kiến của bạn