Hôm nay,  

Vc Lại Ký Biên Giới Với Miên, Lăm Le Bán Cam Ranh Cho Tàu

30/10/200500:00:00(Xem: 5795)
- (Viết tặng Đốc Sự Phạm Ngọc Cửu, Phó Tỉnh Trưởng Bình Thuận (1969-1975)_

Năm 1895 nhà Thanh bị Nhựt đánh bại, phải ký hòa ước Mã Quan (Simonoseki) nhường cho nước này các quần đảo Đài Loan, Bành Hồ. Năm 1901 Nhựt lại chiếm Hải Cảng Lử Thuận (Port Arthur) nhưng bị Nga rũ các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức..bắt trả bán đảo Liêu Đông cho Tàu. Sự thù hận giữa Nga-Nhựt bắt đầu từ đó và bùng nổ , khi Hạm đội của Nga Hoàng Nicolas II,bất thần chiếm Cao Ly, Mãn Châu và Hải cảng Lữ Thuận. Giữa lúc hai nước còn đang điều đình, Nhật bắn chìm 3 chiến hạm Nga trong Hạm đội. Theo sử liệu còn lưu trữ, cho biết lúc đó có chiến hạm Diana, lợi dụng đêm tối nên đã thoát được trận địa tại Hoàng Hải và chạy vào Giang cảng Sài Gòn ngày 25-8-1904, xin thực dân Pháp cho trú ẩn chờ lệnh của Mạc Tư Khoa. Để cứu viện cho Hạm Đội Nga tại Lữ Thuận sắp bị Hải quân Nhật tiêu diệt, Nga Hoàng đã ra lệnh cho Hạm Đội Hắc Hải, do Đô Đốc Rodjestvensky chỉ huy, đi vòng Ấn Độ Dướng, tới tiếp viện. Vì muốn giữ trung lập, Paris đã chỉ thị cho Toàn quyền Đồng Dượng ra lệnh cho Đô Đốc Pháp là De Jonquières, từ Sài Gòn ra tận Vũng Tàu, cấm Hạm Đội Nga không được ghé vào lãnh thổ VN. Nhưng lúc đó, Hạm Đội Nga với 52 tàu chiến đủ loại, không ghé cảng Ô Cấp, mà lại vào thẳng Vinh Cam Ranh ngày 13-4-1905 và bỏ neo tại đó.

Sự kiện trên làm cho thực dân Pháp tại Đông Dương bối rối, vì bị Đại Sứ Nhật tại Paris phản kháng quyết liệt, nên ngày 8-5-1905 Thống đốc Nam Kỳ từ Sài Gòn tới Cam Ranh, gửi tối hậu thư bắt Đô Đốc Rodjestvensky, phải rút Hạm Đội ra khỏi VN. Nhưng dù bị áp lực nhiều lần, mãi tới ngày 14-5-1905, khi Tiểu Hạm Đội Nebogatoff với các chiến hạm Apraxine, Ouchakoff, Vladimir Monomach..gia nhập đoàn, chừng đó Đệ Nhị Hạm Đội Nga tại Hắc Hải, mới chiu rời Vịnh Cam Ranh, sau khi trốn ở đây hơn một tháng. Sau đó Hạm Đội Nga lừng danh khắp thế giới , vào ngày 27-5-1905, đã bị Hạm Đội Nhật của Đô Đốc Heihatiro Togo, tiêu diệt gần hết tại Eo biển Tsoushima (Đối Mã) trong Nhật Hải. Các Đô Đốc Rodjestvensky, Nebogatoff..kéo cờ trắng đầu hàng và bị bắt làm tù binh. Chỉ có vài chiến hạm còn lại bị hư hai nặng nhưng chạy trốn được tới Vịnh Subic, Phi Luật Tân. Nga thua trận phải ký Hòa ước Portsmouth kết thúc chiến tranh, nhường cho Nhật bảo hộ Cao Ly, Liêu Đông, hải cảng Lữ Thuận, phía nam đảo Sakhaline và đường xe lửa Mãn Châu. Sự kiện này, QuáchTấn khi viết ' Xứ Trầm Hương ', cũng có nhắc tới việc Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, năm đó từ Quảng Nam vào Khánh Hòa, nghe đồn Hạm đội Nga vào Cam Ranh, có tới xem nhưng không toại nguyện, do đó đã thẳng đường vào thăm bạn là Trượng Gia Mô tại Phan Rí, mở màn cho bi kịch ' Trường Dục Thanh ' , để thầy Thành tới dạy học năm 1910, khiến cho đồng bào vùng Cồn Cỏ, và con cháu Nguyễn Thông ở Phan Thiết, phải tán gia bại sản sau ngày 30-4-1975, vì VC chiếm nhà đất của mọi người, để làm khu di tích và bảo tàng viện họ Hồ.

Hai mươi năm trong chiến cuộc Đông Dương 2 (1955-1975), Việt Cộng nhờ có viện trợ khổng lồ của Trung Cộng, Liên Bang Sô Viết và Đông Âu..mới cưởng chiếm được cả nước. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, tình hình cọng sản quốc tế cũng biến chuyển và phân thành lưỡng cực, chấm dứt cơ hội để Lê Duẩn kế thừa sự nghiệp đi giây giữa hai đàn anh vĩ đại hưởng lợi như lúc trước. Với Liên Xô, muốn có viện trợ , VC phải theo hẳn Điện Cẩm Linh từ kinh tế tới quân sự, cho Hải quân Nga vào Hải Phòng, Đà Nẳng, Cam Ranh, Vũng Tàu, để lập căn cứ, chống lại Trung Cộng, lúc đó đang ngả dần thân thiện với Hoa Kỳ. Còn Trung Cộng, qua Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình vừa được phục chức, muốn có viện trợ, VC phải theo Trung Cộng, để chống lại chủ nghĩa bá quyền Liên Xô. Cuối cùng ngày 27-12-1975, tại Bắc Kinh, Lê Duẩn đã dứt khoắc từ chối không theo Tàu, không ký bản thông cáo chung chống Nga, cho nên bị cúp hết viện trợ, kể cả gạo. Đồng thời còn bị bắt buộc phải trả nợ theo đúng hạn kỳ. Cũng kể từ đó, Lê Duẩn và đảng VC chạy theo Liên Xô, công khai đối lập và chống lại Trung Cộng, gây nên cuộc ác chiến trong họ hàng nhà Cộng, giữa ba đảng anh em Tàu-Hà Nội và Khmer Đỏ , vào năm 1978-1979, làm cho quê hương VN đã điêu tàn thảm tuyệt từ năm 1930, tới nay lại tiếp tục tang tóc đổ máu để lót đường làm giàu của các chóp bu, đang ngự trong cung vàng điện ngọc tại Bắc Bộ Phủ.

Quyền lực phải kiếm trên đầu súng, trở thành căn bệnh trầm kha của những lãnh tụ già nua thất học của đảng VC , nên vừa đạt tới đỉnh cao, sau chiến thắng bất chợt tại Miền Nam vào ngày 30-4-1975, thì đã tàn cơn mộng hẻo vào những ngày đầu năm 1977, vì nạn đói từ bắc vào nam, do thiên tai và việc không hợp tác của đa số nông dân vựa lúa miền Sông Tiền, Sông Hậu. Đồng bào Miền Nam đã chống lại chính sách kinh tế tập trung, sưu cao thuế nặng, cùng với sự quản lý ngu dốt của bọn cán bộ miền Bắc, đám hồi kết Miền Nam, rất tham lam và độc tài. Tất cả chiến lợi phẩm , trong số này có 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia VN để lại, cùng tài sản của đồng bào bị cước bóc, đã được tẩu tán chia nhau thụ hưởng, đâu ai chịu bỏ ra để mua gạo cứu đói. Bởi vậy VC lại đi ăn mày khắp nơi, kể cả LHQ cùng các nước anh em Thụy Điển, Liên Xô, Đông Âu, Pháp, Ấn Độ..nhưng ở đâu cũng hoàn toàn thất bại, vì ai cũng đã thấy rõ được bộ mặt thật của cọng sản, sau khi lộ nguyên hình, khắp cả nước trong thiên đàng xã nghĩa.. Còn Trung Cộng khi tiêu diệt dược Giang Thanh và Tứ Nhân Bang, đã chấn chỉnh nội bộ, công khai liên hệ với Hoa Kỳ, triệt để chống Liên Xô cùng Việt Cộng, nên từ chối viện trợ, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Đồng thời Polpot và Khmer Đỏ cũng theo hẳn Trung Cộng, mở nhiều cuộc tấn công tàn sát đồng bào VN vô tội, dọc theo các làng mạc biên giới Miên Việt. Tại Paris, cuộc hội đàm giữa VN và Hoa Kỳ, về vấn đề nối lại bang giao, bi tan vở vì lòng tham vô đáy của VC, chỉ đòi tiền bồi thường chiến tranh và viện trợ tái thiết. Rốt cục Tổng Thống Jimmy Carter cũng phải quay mặt và yêu cầu Quốc Hội cấm viện trợ và cấm vận VN. Tất cả mọi lý do trên, đã đẩy VC vào cuối đường hầm, nên Lê Duẩn lại hết lờ ca tụng Mạc Tư Khoa, phát động chiến dịch ' Việt-Xô hữu nghị ' . Nhưng muốn làm đầy tớ Nga, trước hết VC phải gia nhập Khối Hợp tác kinh tế Đông Âu (IBEC) và phải gửi chiến lợi phẩm thu được của VNCH sang Ethiopie và Salvador qua hình thức trả nợ cho Nga. Từ tháng 7-1977, nhiều nhân vật cao cấp của Điện Cẩm Linh , tới nhắm nhía các quân cảng và phi trường củ của VNCH tại Đà Nẳng, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Nha Trang nhưng quan trọng nhất là Vịnh Cam Ranh, để bắt đầu cuộc hợp tác quân sự mới ' Liên Minh chống Hoa Kỳ, Trung Cộng và Khmer Đỏ '..hay nói đúng hơn là tiếp tục cắt xẽ da thịt của Mẹ VN cho ngoại bang, để có phương tiện chiến tranh nô lệ cả nước.

Ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Tổng Bí Thư Liên Xô Brezhnev, ký kết Hiệp ước Liên Minh Quân Sự, trong đó có Điều 6 , cho phép Không-Hải Quân Liên Xô, được xử dụng bất cứ quân cảng và hải cảng của VN. Rồi lúc quân Tàu còn đang tàn sát cướp phá các tỉnh tại Thượng du Bắc Việt, thì Thủ tướng VC Phạm Văn Đồng lại bí mật bay tới Mạc Tư Khoa, để ký kết ' Cho Mướn Dài Hạn ' Căn Cứ Quân Sự va Hải Cảng Cam Ranh. Giao kèo bắt đầu ngày 27-3-1979, một tiểu Hạm Đội Nga gồm một Khu trục hạm + một Tuần dương hạm + một Tàu dò mìn, đã chính thức đóng căn cứ tại Vịnh Cam Ranh..cho tới khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, mới chịu rút về nước, vì không còn muốn thuê mướn.

Năm 1939, Toàn quyền Đông Dương là Jules Brevié đã vẽ lại bản dồ hành chánh,an ninh của ba nước Việt-Lào-Mên thuộc Đông Pháp. Từ đó về sau, bản đồ ranh giới này, kể cả biên giới VN phía bắc đối với nước Tàu, trên bộ lẫn dưới biển được gọi là đường ranh Brevié. Với lãnh hải của hai nước Việt-Miên lúc đó thuộc Pháp, đường ranh phân chia được vẽ theo góc 140 độ, tính tứ đất liền phóng ra vịnh Xiêm La ( Gulf of Siam) . Đặc biệt khi vẽ bản đồ trên, Brevié đã có ghi chú rõ ràng ' Đảo PHÚ QUỐC lãnh thổ của VN nên ngoại lệ, dù nằm sâu trong lãnh hải Cao Mên tới 1,5 dặm '.

Ngày 17-4-1975 , lực lượng Khmer Đỏ của Polpot chiếm thủ đô Nam Vang. Rồi thừa lúc VC đang ăn chia chiến lợi phẩm của VNCH bỏ lại khắp Miền Nam sau ngày 30-4-1975, nên Polpot cưởng chiếm và tàn sát nhiều ngàn đồng bào VN vô tội, trên Đảo Phú Quốc ( Koh Tral) ngày 4-5-1975 và Thổ Châu (Puolo Panjang) ngày 10-5-1975. Nhưng hai tuần lễ sau, VC phản công, chẳng những chiếm lại hai đảo trên, mà còn chiếm thêm đảo Puolo Wai của Kampuchia. Ngày 12-6-1975, Polpot , Ieng Sary và Nuon Chea dẫn phái đòan sang thăm ' Hữu Nghị Anh Em ' tại Hà Nội. Hai phía đã thảo luận về ranh giối, trong đó Polpot đòi VC phải tôn trọng ' Bản Tuyên Bố' của nước VN Dân Chủ Cộng Hòa ' tức Bắc Việt, được gọi là DRV do Hà Nội ký vào năm 1967, để làm nền móng lãnh thổ hiện tại của Kampuchia. Sự kiện này, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng đã cam kết với Sihanouk lẫn Khmer Đỏ vào năm 1966, khi mượn đất Miên làm sào huyệt và đường nhận tiếp tế từ Miền Bắc vào cũng như tại hải cảng Kompong Som ở Vịnh Thái Lan. Nhưng dòi hỏi trên bị VC từ khước, mặc dù Polpot lúc đó cho biết không cần thi hành tức khắc, mà chỉ muốn ký về định mốc biên giới. Tháng 6-1977 qua một cuộc phỏng vấn của báo chí Pháp tại Paris, Phan Hiền đã trơ trẻn trả lời ' Hồi đó chúng tôi (Bắc Việt) không hề để ý về lãnh hải, nên đã ký với Kampuchia, bản tuyên bố năm 1967. ("")

Tóm lại trong lịch sử thế giới, vấn đề tranh chấp biên giới, lãnh hải giữa các quốc gia lân cận, hầu như thời nào và ở đâu cũng có. Nhưng tại VN từ khi đảng cọng sản đệ tam quốc tế, do Hồ Chí Minh mang về từ Liên Xô. Vì quyền lợi riêng tư của đảng và cá nhân, cọng sãn VN liên tiếp hứa, ký, thế chấp, sang nhượng cho ngoại bang lớn nhỏ, rất nhiều đất đai lãnh thổ của tiền nhân để lại. Thảm tuyệt nhất là những lời hứa hẹn.mà hậu quả trước mắt la cái cớ để Sihanouk, dù sắp chết tại Bắc Kinh, qua xếp đặt của Tàu, cứ to tiếng đòi đất đai biển cả, dù sự thật là Kampuchia không có một dữ kiện lịch sử nào, để xác nhận Vùng Thủy Chân Lạp là lãnh thổ nguyên thủy của họ từ mấy trăm năm về trước. Thêm vào đó là việc đảng lăm le dâng hiến Vịnh Cam Ranh cho Trung Cộng, sau khi các công ty dầu hỏa của Mỹ vừa ký hợp đồng với VC, để khoan các giếng dầu-khí vừa tìm thấy trong hải phận VN, tai hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Trong hai mươi năm VNCH (1955-1975), các vị nguyên thủ quốc gia từ cựu hòang Bảo Đại, TT Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu cho tới Trần Văn Hương bị thóa mạ đủ điều nhưng không có ai dám chụp mũ là họ đã bán nước cho ngoại bang, dù chỉ một tất đất., kể cả 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia và tiền ký bảo chứng 100 triệu đô la tại Mỹ, sau đó đều lọt vào túi VC. Hởi ơi nhìn lại từ đầu tới cuối, VC còn tệ hơn trăm ngàn lần, nếu đem so sánh với những Trần Thiểm Bình, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống.vậy mà lúc nào cũng đỉnh cao, đào bới người khác là Việt Gian, Nguỵ, tham nhũng bán nước và đàn áp tôn giáo, văn nghệ sĩ .. Bây giờ ai mới thật sự là thủ phạm "

1-LĂM LE MUỐN BÁN CAM RANH CHO TRUNG CỘNG :
Cam Ranh là một trong bốn vịnh của tỉnh Khánh Hòa, nằm về phía nam bờ biển Trung Phần. Tỉnh này hiện có diện tích 5.197 km2 với dân số năm 2000 là 1.031.262 người, tỉnh lỵ là thành phố Nha Trang và các quận Vạn Ninh, Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam Ranh, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, giáp ranh với các tỉnh Phú Yên (bắc), Darlac (tây), Ninh Thuận (nam) và biển Đông Hải.

Khánh Hòa có rất nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp như Hải Học Viện xây năm 1922 tại Cầu Đá Nha Trang. Dây là cơ sở chuyên môn duy nhất về ngành khảo sát hải dương học tại VN từ trước tới nay, nên còn lưu giữ phần lớn những bộ sưu tập về các sinh thực biển, hầu như đủ loại muôn hình muốn sắc. Phía bên kia cầu Xóm Bống, thuộc xã Vĩnh Phước rất lâu đời, có nhiều tháp Chàm, được xây dựng từ thế kỷ 7-13 sau tây lịch (STL). Hiện chỉ còn lại 4 tháp, trong số này lớn nhất là Tháp Bà (Po Nugar), thờ Nữ thần Po Nugar, rất được người Việt sùng bái và ngưỡng-trọng. Trong tỉnh còn có Hồ tắm Trí Nguyên, chu vi 160 x 130m do Trí Nguyên xây năm 1971, gồm ba khu vực nuôi đủ cac loại cá cảnh, cá ăn thịt và các loại cá dữ. Trên hồ có nhà nghĩ mát, phong cảnh rất đẹp. Tại Dục Mỹ thuộc quận Ninh Hòa, có suối nước nóng ở độ 75, hiện được khai thác du lịch và chửa bệnh bằng bùn có chứa nhiều khoáng chất. Dọc theo quốc lộ 1 về hương nam, cách Nha Trang chừng vài cây số, có ngôi mộ của bác sỷ Alexandre Yersin (1863-1943), nằm trên một ngọn đồi thấp. Ông chẳng những là một trong những người đầu tiên đã tìm ra cao nguyên Lâm Viên (Đà Lạt), mà còn là ân nhân của dân tộc VN , đã tìm ra những thuốc chủng cac loại bệnh dịch, khi làm việc tại Viện Pasteur Nha Trang do chính ông thành lập. Ngoài ra ông cũng là người đầu tiên, thành công đem giống cao su về trồng tại Khánh Hòa. Do những gắn bó trên, nên khi mất lúc 80 tuổi, ông muốn được chôn tại VN, dù là người Pháp gốc Thụy Sĩ. Trước năm 1975, Khánh Hòa là một trong vai tỉnh có an ninh nhất VNCH, vì có nhiều quân trường và cơ sở quân sự quan trọng tại đây, như Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, đóng tại trại Chương Dương đường Lê Văn Duyệt, Nha Trang. Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp vận cùng các cơ cấu liên hệ, Tòa Án Quân Sự và Mặt Trận Vùng 2 Chiến Thuật, Quân Y Viện Nguyễn Huệ, Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không quân và Hải quân, Trung Tâm Huấn Luyện Lực Lượng Đặc Biệt ở Đông Ba Thìn (Cam Lâm), Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế và Huấn Khu Dục Mỹ gồm có Trường Pháo Binh, Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân và nhất là Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, chuyên thụ huấn binh sĩ quân dịch vùng 2 chiến thuật, cũng như các đơn vị của Sư đoàn 22 và 23 BB, kể cả DPQ + NQ .

Riêng Nha Trang xưa nay vẫn nổi tiếng khắp nước là một thành phố du lịch, miền thùy dương cát trắng, với non nước hữu tình, qua cảnh ' tứ thủy triều qui, tứ thú tụ '. Đó là bốn mặt đều có nước bao bọc, còn bốn con linh thú, tượng trưng cho hùng khí của xứ trầm hương, dùng để gọi tên núi non trong tỉnh như Thanh Long kỷ thủy (Rồng xanh giỡn nước) tức núi Cảnh Long, còn Bạch Tượng Quyện Hổ ( voi trắng cuốn cọp) thì chỉ núi Sinh Trung ở Hà Ra, Hòn Trại Thủy là núi Dơi và Núi Một là Hòn Rùa hay Hoa Sơn. Nha Trang . Ngày nay dù đã qua bao cuộc thăng trầm dâu bể, nhưng ngôi thánh đưòng cổ kính của địa phận Nha Trang , được xây dựng từ năm 1930, vẫn còn đứng sừng sững trên ngọn đồi thấp trong thành phố, với lầu chuông cao ngất, từ đó chúng ta có thể chiêm ngưởng toàn bộ non nước hữu tình của biển xanh, mây trắng, phố thị nguy nga đài các, làm cho tâm hồn lãng tử cũng phiêu bồng theo điệu khúc ngàn năm của sóng nước. Đến đây cũng không thể không ghé chơi Chợ Đầm, ngôi chợ lớn nhất của Nha Thành, bị cháy và được xây lại năm 1972, nằm cuối hai con đường đẹp nhất Độc Lập và Phan Bội Châu. Tóm lại ở đây, bất cứ nơi nào cũng đều là cảnh, như Chùa ông Bưởi, Hang ông Già, Suối Ồ Ồ, Suối Tiên, Hồ Tiên, Suối Đỏ, Suối Ngổ, Thành Cổ Diên Khánh, Hòn Chồng..tất cả dù thời gian có nhuộm màu mưa nắng nhưng vẫn làm xao xuyến hôn người, khi chạnh nghĩ tới công trình xây đắp của tiền nhân bao đời, bằng huyết lệ thịt xường và tâm tình diễm tuyệt.

Tỉnh Khánh Hòa muôn đời là vậy đó, ngoài vẽ đẹp của thiên nhiên, ở đây còn có Hải cảng Cam Ranh, được thế giới đánh giá là tốt nhất vùng Đông Nam Á. Từ cửa sông Nha Trang, đi dọc theo bờ biển về hướng nam, đến bãi cát Trường Tây, Trường Đông dài hơn hai cây số , phía ngoài biển có Hòn Cảnh Long. Qua cửa Bé trong Vịnh Cù Huân, sẽ thấy Dãy Hoàng Ngưu Sơn trước mặt, che khuất Bán Đảo Cam Ranh, nằm ở cuối chân núi, chạy thẳng ra tới biển, theo hướng đông nam, như một bình phong vững chắc, che chắn gió bảo đại dương cho Vịnh Cam Ranh và Vũng Thủy Triều. Vùng này có Hòn Tí, Bãi Dài, Hòn Xe, là nơi cá tập trung nhiều nhất, được ngư dân Khánh Hoà ngành Lưới Đăng, gọi ' Huyết Mạch '. Từ năm 1969 về sau, khi toàn bộ các cơ cấu của Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận, từ Nha Trang di chuyển về Đặc Khu Cam Ranh, thì lệnh cấm đánh cá 3 km, từ biển vào bờ tại vùng Huyêt Mạch, vì tất cả tàu thuyền chở hàng tiếp vận, gần như cắp bến ở đây, mà không phải tới Đại Đội 50 Tiếp Liên, nằm trong Cửa Lớn-Nha Trang, như khi quân đôi Hoa Kỳ chưa triệt thoái

CAM RANH : Tên của một làng đánh cá nhỏ nằm trên vịnh, ở phía nam tỉnh Khánh Hòa.Theo quốc số 1 đi Sài Gòn, qua khõi Nha Trang chừng 40 km, tới ngả ba Ba Ngòi, rẽ về hướng đông, qua cầu Long Hồ bắc ngang Đầm Thủy Triều, là tới thị xã Cam Ranh, mới được thành lập vào thập niên 60 của thế kỷ XX. khi quân đội Mỹ và đồng minh vào tham chiến .

Bán đảo Cam Ranh còn có tên là Bình Ba. Vùng này nổi tiếng về những rặng dừa xanh rất sai trái và nước ngọt lịm. Do đó đã có nhiều bài phong dao, xuất phát từ dân gian với lời lẽ rất trữ tình, nói lên sự gắn bó của trai gái ở đây : ' Rừng dừa xanh mát Cam Ranh, Trái sai nước ngọt, nên Anh quên về '. Biển ở đây, hầu như quanh năm suốt tháng xanh mát phẳng lờ, tạo nên vùng vịnh hiền hòa, không một nơi nào sánh được. Đây là một bán đảo từ đất liền lấn rất sâu ra đại dương, đã vậy còn có Hòn Bình Ba nằm án ngữ , chịu hết sóng gió từ bên ngoài, làm cho Vịnh luôn luôn sóng lặng, chẳng khác gì những dòng sông trong đất liền. Hòn Bình Ba còn là nơi bao đời nổi tiếng về Tôm Hùm, ma dân gian trong tỉnh Khánh Hòa đã truyền tụng ' Yến Sào Hòn Nội - Vịt Lội Ninh Hòa - Tôm Hùm Bình Ba '. Tôm ở đây chẳng những to, thịt chắc ăn ngon mà võ rất cứng có nhiều vân đẹp, nên được dùng trong thủ công nghệ để trang trí, được cả nước yêu thích. Ngoài ra khí hậu ở đây cũng mát dịu nhờ gió biển điều hòa, đẹp nhất là lúc mặt trời hiện lên rất sớm trong bình minh và cũng đi ngũ muộn hơn các nơi khác , trong cảnh hòang hôn, giữa mây trôi, gió chiều, buồn thơ trên vịnh.

Vào những ngày sắp Tết, Mai mọc đầy trên răng Hoàng Ngưu Sơn, làm vàng rực các lối đi. Tại đầm Thủy Triều có nhiều Sò Huyết ngon ngọt, đâu có thua gì sò tại đầm Ô Long, thuộc quận Tuy An-Tuy Hòa. Rồi sau Tết , bắt đầu từ tháng 4 âm lịch mùa Phật Đản, cũng là mùa Xoài Cam Ranh, được các nhà vườn đem bầy bán dọc theo Quốc Lộ 1, tới Chợ Đàm Nha Trang và lên xe lửa, xe đò ra tận Hà Nội cùng các tỉnh ở miền Bắc. Ngoài ra Cam Ranh còn nổi tiếng nhờ rừng đừa Hiệp Mỹ, giống được Pháp đem từ Bắc Phi tới trồng theo kỹ thuật đồn điền, ngay hàng thẳng lối, rất đẹp mắt. Ở đây còn có những đồng cát trắng mịn, không phải chỉ dùng để ngóng như ở Mủi Né-Phan Rí, mà còn được dùng trong kỹ nghệ đồ gốm, để làm bát dĩa,ly tách, bình.rất được người Nhật ưa chuộng.

CAM RANH , VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC SỐ 1 CỦA VN : Ngay từ thế kỷ XVIII khi chiếm được Nam Hà của Chúa Nguyễn, Nguyễn Huệ đã nhìn thấy giá trị chiến lược quân sự của vịnh Cam Ranh, nên thiết lập tại đây một căn cứ Thủy Quân rất lớn và giao cho danh tướng Trần Quang Diệu trấn giữ . Cảm khái trước cảnh hùng vỹ của đất nước, ông viết :
' Diên Khánh tân thanh trang,
Cam Ranh hải thế thâm
Xuất sư yên liên tiệp
Báo quốc thế công tâm '
Theo hòa ước Giáp Thân (1884), lãnh thổ Trung Kỳ từ Thanh Hóa vào tới Bình Thuận, là đất của Hoàng Triều Cương Thổ thuộc Triều Đình Huế nhưng thực dân Pháp đã ngang nhiên chiếm Cam Ranh để làm quân cảng. Năm 1895 Hải quân nhà Thanh bị Nhật đánh bại tại Hoàng Hải, nên phải ký Hòa Ước Mã-Quan (Simonoseki) , nhường cho Nhật Đài Loan và quần đảo Bành Hồ. Năm 1901 Nhật lại chiếm Hải Cảng Lữ Thuận (Port Arthur) của Tàu nhưng bị Nga xúi cac nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức.can thiệp, bắt phải trả lại cho Trung Hoa. Mối thù giữa Nga-Nhật bắt đầu từ đó và đã bùng nổ vào năm 1904, khi Nga Hoàng Nicolas II cho hạm đội tấn công chiếm Mãn Châu và Lữ Thuận. Trong lúc hai bên còn đang thương thuyết, Nhật tấn công trước, đánh chìm ba chiên hạm Nga. Chiến tranh bắt đầu ngày 8-2-1904 và trong lúc khói lửa mị trời, một tàu Nga tên Diana, lợi dụng bóng đêm đã trốn khỏi Hoàng Hả, chạy về nam phương. Chiến hạm này vào giang cảng Sài Gòn ngày 25-8-1904, xin thực dân Pháp cho trú ẩn chờ lệnh của Mạc Tư Khoa.

Trong lúc đó Hạm Đội Nga tại Lự Thuận cũng sắp bị Nhật tiêu diệt. Để cứu nguy, Nga Hoàng đã phái Đệ Nhị Hạm Đội Hắc Hải, đi vòng Ấn Độ Dương tới Viễn Đông cứu viện. Hạm đội này do Đô đốc Rodjestvensky chỉ huy, rất đồ sộ với 52 tàu chiến đủ loại, gồm 2 tiểu hạm đội thiết giáp hạm, một tiểu hạm đội tuần dương, một tiểu hạm đội phóng thủy lôi và nhiền chiến hạm tiếp vận, chở lương thực, vũ khí và than đá. Đó là chưa kể nhiều tuần dương hạm ngoài biển, một đoàn tàu ghé Nam Dương lấy than và chiếc tàu bệnh viện Orel đang ghé Sài Gòn. Vì để giữ trung lập, nên Paris chỉ thị cho Toàn quyền Đông Dương tại Hà Nội, ra lệnh cho Đô đốc De Jonquières, Thống đốc Nam Kỳ, từ Sài Gòn ra Ô Cấp yêu cầu Hạm Đội Nga phải rút đi ngay nếu ghé Vũng Tàu. Nhưng trong lúc Đo đốc Pháp chờ đợi, thì Hạm Đội Nga đã đi thẳng và vào đóng trong Vịnh Cam Ranh ngày 13-4-1905. Lúc đầu người Pháp tưởng rằng Hạm Đội Nga chỉ ghé Cam Ranh để lấy nước ngọt và mua lương thực, rồi tới ngay chiến trường để tiếp cứu cho Hạm Đội I của Nga, lúc đó đang bị Nhật vây khổn ở Lữ Thuận, sắp bị tiêu diệt. Nhưng không biết sao, Hạm Đội 2 cứ ở lỳ trong vịnh Cam Ranh, trong lúc khi Sứ bộ ngoại giao Nhật ở Paris phản kháng Pháp dữ dội. Bởi vậy Đô Đốc De Jonquières lại được lệnh, từ Sài Gòn tới Cam Ranh, yêu cầu Hạm Đội Nga phải nhổ neo rời Cam Ranh và Văn Phong tức khắc nhưng Nga hứa là ngày 19-4-1905 sẽ đi, khi Tiểu Hạm Đội của Đô Đốc Nebogatoff tới nhập đoàn. Nhưng Nga vẫn không thi hành lời hứa, ngày 30-4-1905 bị Pháp làm dữ, Hạm đội Nga chạy ra núp ở Hòn Né, nhưng lại quay vào vịnh Cam Ranh ngày 4-5-1905. Mặc kệ Pháp có tối hậu thư nhiều lần, cũng như câu chuyện Hạm đội Nga lén lút núp trong Vịnh Cam Ranh, được đưa lên báo chí quốc tế, trở thành một hài kịch để thế giới đàm tiếu , người Nga vẫn lỳ lợm, mãi tới ngày 14-5-1905, khi tiểu hạm đội Nebogatoff, gồm các chiến hạm Apraxine, Ouchakoff,Vladimir Nomonach..tới gia nhập vào Hạm Đội II, chừng đó Nga mới chịu rời Cam Ranh,lên đường tói Lữ Thuận, tính ra đã trốn ở đây hơn một tháng. Theo sử liệu, Đệ Nhị Hạm Đội của Nga Hoàng, trên đường tới Hoàng Hải để nghênh chiến với Nhật nhưng ngày 27-5-1905, khi Hạm đội chỉ mới vào Eo Đối Mã (Tsoushima) trong Nhật Hải, thì bị Hạm Đội Nhật của Đô đốc Heihatiro Togo , phục kích tiêu diệt gần như toàn bộ, chỉ cón có 3 chiến hạm cũng bị hư hại nặng, chạy thoát được tới Phi Luật Tân. Trong trận này, Đô đốc chỉ huy Rodjestvensky và Nebrogatoff..đều bị Nhật bắt làm tù binh. Để kết thúc chiến tranh, Nhật-Nga đã ký hòa ước Postmouth, ngoài bồi thường chiến phí, Nga còn nhường cho Nhật phía nam đảo Sakhaline, bán đảo Liêu Đông, hải cảng Lử Thuận, Cao Ly và đường xe lửa Mãn Châu. Cũng từ đó Nhật tiến lên hàng cường quốc, được cả thế giới kính nể, vừa khuyến khích các phong trào cách mạng của người Trung Hoa, lật đổ ách thống trị nhà Mãn Thanh, đồng thời cũng làm nổi dậy các phong trào giải phóng của các dân tộc nhược tiểu đang bị thực dân da trắng đô hộ tại Việt Nam, Ấn Độ, Nam Dương. Đó cũng là lý do phát động phong trào Đông Du của VN do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Sào Nam Phan Bội Châu chủ xuớng, vào đầu thế kỷ XX.

Rõ ràng là lịch sử đả quay tròn, lần thứ 1 vào ngày 12-4-1905 , Đệ nhị Hạm Đội Nga đã xông vào Vịnh Cam Ranh hơn một tháng nhưng bị Pháp đuổi đi. Bảy mươi bốn nam sau, lúc Cam Ranh đã được Hoa Kỳ khi tham chiến tại VN, xây dựng thành đệ nhất quân cảng của Á Châu, rồi để lại cho VNCH , thì chính cọng sản Hà Nội đã mời Liên Xô vào Cam Ranh ngày 27-3-1979, với một tiểu hạm đội gồm khu trục hạm, tuần dương hạm và tàu dò mìn. Cũng từ đó , Cam Ranh trở thành quân cảng lớn nhất của Hải Quân Liên Xô ở hải ngoại và là tiền đồn chính của cọng sản đệ tam quốc tế trên thủy lộ từ Ấn Độ Dương tới biển Thái Bình.

Ngày nay các bí mật của lịch sử thế giới lần lượt được công khai phổ biến, sau khi Liên Bang Sô Viết và Đông Âu bị sụp đổ vào năm 1990-1991. Nhờ đọc được, ta mới biết rõ, chỉ sau 11 ngày, khi cuộc chiến biên giới Việt-Trung bùng nổ, thì Phạm Văn Đồng đã bí mật sang Mạc Tư Khoa, để ký kết với Liên Xô ' Hiệp Ước Nga-Việt', được soạn thảo từ tháng 2-1979. Trong lần ký này, có diều 6, VC cho phép quân Nga được vào các căn cứ quân sự của VN, đã ' CHO THUÊ' trong số này có Cam Ranh, là một quân cảng tốt nhất VN, vì mực nước sâu, tàu thuyền loại nào cũng có thể vào Vịnh được. Quan trọng nhất là những ngày sóng gió, bão tố, trọng vịnh nước vẫn hiền hòa, vì tất cả đã bị bán đảo Bình Ba ngăn chặn lại. Cam Ranh còn có ưu thế vì nằm giữa bờ biển rất dài của VN, có khoảng cách ngắn nhất ra tới Hải lộ quốc tế so với bất kỳ hải cảng nào, như Hải Phòng (18 giờ), Vũng Tàu (3 giờ), trong khi Cam Ranh ra hải phận quốc tế chỉ mất 1 giờ.

Năm 1979 khi Nga vào Cam Ranh, quân cảng này vẫn còn nguyên vẹn không cần phải làm gì, ngoại trừ việc Liên Xô phải thiết kế lại một hệ thống tình báo riêng, để theo dõi chuyển động của Hải quân Mỹ, Trung Cộng và Nhật tại biển Đông. Cũng từ đó, hải lục không quân Liên Xô gia tăng không ngừng trong quân cảng, từ 10 tàu chiến mỗi ngày năm 1979, tăng lên 35 chiến hạm năm 1985, ngoài ra còn 40 chiếc phản lực các loại lên xuống phi đạo trong quân cảng hằng ngày. Theo vệ tinh tình báo Hoa Kỳ ghi nhận, từ năm 1979 về sau, thường trực tại Cam Ranh, luôn luôn có sự hiện diện của 16 Oanh tạc cơ Badger của Hải quân và một Phi đội Mig-23, cùng với nhiều phi cơ vận tải và thám thích. Tất cả tàu chiến, máy bay, ra vào, lên xuống rộn rịp không thua gì thời Mỹ ở VN nhưng tuyệt nhiên dân chúng kể cả người Cam Ranh-Khánh Hòa, không hề biết một điều gì, vì tất cả bi VC giấu rất sâu, cũng như cấm lai vảng tới vùng này.

Theo các nhà sử học, trong cuộc chiến Đông Dương 2, Trung Cộng là kẻ thất bại nhất chứ không phải người Mỹ. Nhờ cuộc chiến, mà Nga mới đặt chân được ở VN và hất Tàu ra khỏi thế lực tại Đông Nam Á.. Cũng chính sự hiện diện quân sự của Nga tại Đông Dương, đã kéo dài chiến tranh tại Kampuchi giữa Miên và VC. Hà Nội đã giúp cho người Nga thực hiện giấc mộng bá chủ Thái Bình Dương, sau năm 1979,. Nhờ phát xuất từ căn cứ Cam Ranh, tàu chiến kể cả tiềm thủy đỉnh Nga, vừa được hưởng những tiện nghi của Mỹ để lại, vừa ngang dọc tung hoành khắp đại dương mà không sợ bị tố cáo, vì cư trú hợp lệ, qua hộ khẩu của VC cấp . Điều này đâu có gì lạ, vì từ Hồ Chí Minh tới những lãnh đạo trước sau trong đảng VC, hầu hết đều xuất thân từ Đông Phương học viện tại Mạc Tư Khoa. Bởi vậy dù xa cách vạn dặm, Hà Nội vẫn luôn luôn trung thành với Nga Sô. Năm 1935, tài liệu của Đông Dương Cọng Sản Đảng đã khẳng định ' Nga Sô là thành đồng bảo vệ cách mạng thế giới '. Từ năm 1965, Nga chống chủ nghĩa xét lại của Trung Cộng, đồng thới với việc Hoa Kỳ và Đồng Minh đổ quân ào ạt vào giúp VNCH. Trước biến chuyển chính trị này, để quân bình chiến lược, trong chiến tranh lạnh giữa Nga-Mỹ-Trung Cộng, trong thế chẳng đặng đứng, Nga đã rốc túi quân viện cho Bắc Việt, dù sau đó VC đã rêu rao khắp làng, là đàn anh chơi xấu, không chịu viện trợ ' Hỏa tiển chống tàu ngầm' để Hà Nội tiêu diệt các chiến hạm Yankee Station, Dixie Station trong Hạm Đội 7 cũa Hoa Kỳ, hoạt động trong vịnh Bắc Việt. Nhưng cuối cùng nhờ đỉnh cao trí tuệ loài người, nên dù Nga Sô không viện trợ hỏa tiển phòng không, theo VC tuyên bố, Bắc Việt cũng chế được. Nhờ vậy suốt cuộc chiến, Hà Nội đã bắn hạ nhiều pháo đài bay B52 của Hoa Kỳ, bắt được nhiều tù bình, trong số này có thượng nghị sĩ đảng cọng hòa ' John M.Cain ', sắp ra ứng cử tổng thống Mỹ niệm kỳ tới.

Đương nhiên thái độ hào phóng của Trung Công hay Nga Sô, đối với VC, đều có cái giá riêng của nó. Để tranh ưu tiên với Trung Cộng, ngay từ ngày 4-5-1975, lấy lý do trợ cấp nhân đạo, Điện Cảm Linh phái hai chiến hạm Nina Sagaidah và Komsomdests Primoria chớ dầu, thực phẩm, cùng với nhiều tàu khác vào Đà Nẳng, Sài Gòn..với thâm ý muốn xử dụng lâu dài các hải cảng của Nam VN. Chuyện tàu Nga vào ra VN, càng khiến cho Trung Cộng thêm ứa gan ' Bọn Xét Lại VC' ' đang bí mật âm mưu với đế quốc Nga, để cưởng chiếm Đông Nam Á.. Sau đó Mao Trạch Đông cảnh cáo Thái Lan, đồng thời hết lòng quân viện và tâng bốc các lãnh tụ Khmer Đỏ, nhất là Polpot, đổ dầu vào ngọn lữa thù hận của hai dân tộc Việt-Mên, gây nên cuộc chiến Đông Dương 3, giữa ba đảng cọng sản Tàu-Việt và Kampuchia, vào cuối năm 1978-1979, vô cùng thảm khốc, tàn pha và giết hại không biết bao nhiêu sinh mạng thường dân vô tội của ba nước liên hệ. Một phần vì ghét thái độ hống hách của bọn lãnh đạo già nua Hà Nội, trước chiến thắng bất ngờ như từ trên trời rớt xuống tại Miền Nam, nên sướng quá tới điên loạn, trở thành ngu muội, nên tuyên bố một cách xấc xược, chẳng những qua lời nói mà còn viết trên tờ Nhân Dân vào tháng 7-1975 ' VC tự mình thắng cuộc chiến, chứ không nhờ Nga và Trung Cộng ép Hoa Kỳ phải thua trận '. Nhưng quan trọng nhất, vẫn là cả Trung Cộng lẫn Nga, lúc nào cũng muốn lợi dụng sự trung thành của VC để hưởng lợi, chứ không phải như mọi người đã tưởng, là Hồ Chí Minh và VC đi giây giữa Nga-Tàu trục lợi, nhờ cái thế đứng chiến lược của mình ở Viễn Đông. Và tất cả đã hiện thực từ tháng 10-1975, khi cả Bắc Kinh lẫn Mạc Tư Khoa , chẳng những từ chối viện trợ mà còn bắt VC phải trả lại những gì đã vay, cộng thêm tiền lời, tính ra nợ nần không bút mực nào ghi cho hết. Mùa hè 1976, Nga hũy bỏ công trình xây cất viện trợ nhà máy luyện thép và đập thủy điện sông Đà ở miền Bắc..Tháng 4-1977, Nga cắt hết viện trợ dành cho VN, trong đó có xăng dầu và các phụ tùng vũ khí, xe tăng, máy bay..Đã thế Trong Cộng từ sau tháng 5-1975 cũng cắt số gạo viện trợ hằng năm lên tới 250.000 tấn. Tại miền Nam, tình hình biên giới Việt-Mên càng lúc càng hổn loạn, vì Polpot được Trung Cộng chống lưng xúi giục, nên luôn gây hấn với VN ngay từ đầu tháng 5-1975, khiến cho VC mỗi lúc mỗi nguy ngập vì thù trong giạc ngoài. Bởi vậy để giữ mạng và giữ đảng, Hà Nội chỉ còn có con đường duy nhất theo lời ' bác ' dạy là bán nước cho giặc, để tái lập mối hữu nghi Việt-Nga, mà Hà Nội coi như một thành tụu vĩ đại. Cũng từ đó, VC cho Nga-Tàu lập Tòa Lãnh Sự tại Sài Gòn Tháng 7-1977, phái đoàn quân sự cao cấp Nga tham quan quân cảng Đà Nẳng, Nha Trang và Cam Ranh. Tháng 10/1977 , VC đem nhiều xe tăng thiết vận xa, đại bác của VNCH, cho Nga chở sang Ethiopie bán, để đổi lấy các quân dụng phế thải gồm hai tàu ngầm, một khu trục hạm , một số tàu tuần duyên và bốn phi đội chiến đấu cơ Mig-21.. Từ đó cố vấn Nga có mặt tại VN nhất là Sài Gòn càng lúc càng đông đảo nhưng vì ẩn cư trong các căn cứ cũ của Mỹ, nên đồng bào không ai ngờ. Thế là liên hệ Nga-Việt đã được Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp..tái lập hoàn toàn và công khai, trong đại tiệc tiếp tân Chính Ủy quân dội Liên Xô là tướng A.Yeepishev tại Khách Sạn Thắng Lợi ở Hà Nội.

Trong lúc Khối Asean qua áp lưc của Mỹ-Trung Cộng, dựng lên Liên minh kháng chiến ba thành phần có Sihanouk tham dự, để chống lại VC trên đất Chùa Tháp. Lúc đó Hà Nội gần như đã kiệt quệ hoàn toàn, nhất là kinh tế trong nước và liên hệ bang giao quốc tế. Để đương đầu với giặc Tàu phía bắc và nuôi dưỡng cuộc chiến đang sa lầy tại Kampuchia,khiến cho Nga Sô trở thành chủ nhân ông của VN, tha hồ xử dụng tất cả các căn cứ quân sự cả nước, mà quan trọng nhất là Vịnh Cam Ranh, để bành truớng thế lực chống lại Mỹ-Tàu ở Thái Bình Dương. Đổi lại Nga viện trợ cho VC những quân dụng vũ khí phế thải của khối Warsau, nhưng tính tới 2 tỷ mỹ kim, như là tiền thuê mướn căn cứ . Đó là chưa kể tới quyền lợi to lớn mà VC đã dành cho Nga khi khai thác dầu khí tại các quặng mõ nằm trong hải phận và thềm lục địa của VN từ năm 1977. Nhưng thế chiến lược giửa Mỹ-Nga-Tàu gần như đã bị thay đổi toàn diện, khi Ronald Reagan thuộc đảng Cộng Hòa, đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ, tái xác nhận liên hệ và bảo vệ Đài Loan, dù bang giao Mỹ-Hoa rất tốt đẹp, sau chuyến viếng thăm lịch sử của Đặng Tiểu Bình năm 1979. Không bỏ lở cơ hội khi nhìn thấy sự căng thẳng Mỹ-Hoa, nên Tổng Bí Thư Liên Xô Brezhnev, ngày 24-3-1982, lập tức ve vãn Tàu và kêu gọi bình thường hoá bang giao trở lại. Rồi thì một thỏa hiệp được ký vào năm 1985, tăng giá hợp tac thương mai giữa hai nước nhưng Nga vẫn còn bắt cá hai tay, khi tiếp tục hổ trợ cho VC và không thay đổi chính sách đối với Kampuchia. Rồi thì thói nào tật đó, nên khi đã đem lãnh thổ trong đó có Vịnh Cam Ranh để đổi chác đồ phế thải của Nga,đủ sức kềm chế Khmer Đỏ, VC lại muốn bỏ chân với Mỹ, mời Hoa Kỳ năm 1985 tới Hà Nội tìm xác lính mất tích. Rồi thì để cứu đảng và nền kinh tế đã bế tắc khắp nước, VC không còn eo sách này nọ, mà chủ động hoàn toàn theo ý Mỹ trong việc rút hết quân khỏi Kampuchia và giải quyết các vấn đề Mia, thả tù cải tạo, thực thi chương trình đoàn tụ gia đình ODP. HO, PIP ..từ năm 1988. Thế là lá rụng về cội, Mỹ đi rồi Mỹ lại về, năm 1991 TT. G Bush tuyên bố bãi bỏ lậnh cấm vận VC, năm 1995 TT Bill Clinton bình thường hóa quan hệ VC-Hoa Kỳ, sau đó ký Hiêp Ứớc thương mại song phương Việt-Mỹ..ra đời..

Năm 1990-1991, lần lượt Đông Âu, tới Liên Xô theo bức tường ô nhục Bá Linh sụp đỏ, người Nga cũng rời bỏ Cam Ranh , lui về Hải Sâm Uy không phải không đủ tiền thuê mướn nhưng căn cứ quân sự trên, trong thời chiến tranh điện toán và bom nguyên tử, chỉ còn giá trị trong đầu óc của bọn lãnh đạo tham lam ngu muội Bắc Bộ Phủ mà thôi. Cho nên VC lại gạ Mỹ để cho thuê , chẳng những Cam Ranh, mà bất cứ quân cảng nào khắp nước , nếuMỹ muốn. Nhiều biến chuyển thời cuộc diễn ra, làm nhiều người lại nghĩ rằng, khúc quanh của lịch sử VN cận đại đã bắt đầu, khi thấy một chiến hạm của Mỹ tên USS Gary cặp bến Sài Gòn ngày 29-3-2005. Tiếp theo Peter Rodman, phụ tá tổng trưởng quốc phòng Mỹ, chuyên trách các vấn đề an ninh thế giới, tới thăm Hà Nội ngày 8-6-2005, tiếp theo chuyến đi của Robert Zoellick, phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ, mở đầu cho chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của thủ tướng VC Phan Văn Khải vào ngày 19-6-2005. Bao nhiêu biến cố chính trị dồn dập, trong đó có việc Trung Cộng muốn mua công ty xăng dầu Unocal của Mỹ,một công ty nhỏ nhưng có nhiều khẩu phần khai thác tại Trung Á và nhất là VN. Sự kiện trên làm động tới long mạch cũa nước Mỹ, nên cuối cùng Trung Cộng phải bỏ cuộc, để Unocal sáp nhập vào hảng dầu thứ 2 nước Mỹ là Chevron, theo sự can thiệp trực tiếp của chính phủ liên bang.

Còn TT.VC Phan Văn Khải, vừa từ Mỹ, Canada và Nhật về, ngày 5-7-2005 đã vội qua Côn Minh để gặp Thủ Tướng Trung Cộng là Ôn Gia Bảo, ký chấp cho phép Tàu xây cất một pháo đài chiến lược ba tầng trên đảo Mischief Reef, trong quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền lâu đời của VN. Ngoài ra VN còn chịu để Tàu và Phi khai thac dầu ở đây. Ngày 12-10-2005, theo tin từ hảng thông tấn Reuters cho biết Công ty Chevron va Malaysia, đã đành được quyền khai thác dầu khí trong lãnh hải hai tỉnh Phú-Yên Khánh Hòa (Phú Khánh), ngoài khơi vịnh Cam Ranh. Sau đó báo chí hải ngoại loan tin Trung Cộng muốn trả lại quần đảo Hoàng Sa mà giặc Tàu đả cưởng chiểm của VNCH đầu năm 1974, để đổi lấy Vịnh Cam Ranh. Sự thất chẳng biết đâu mà mò nhưng có điều VC gạ bán hàng quá lộ liểu, khi ai cũng biết ngày nay Tàu đã có Hải cảng Dưong Đông Trên đảo Hải Nam và Hoàng Sa rất tiện lợi, thì tranh chấp Cam Ranh làm gì " Hơn nửa VN ngày nay dưới triều Hồ, đâu có khác gì một tỉnh huyện của Trung Cộng, muốn gì chẳng được, đâu cần phải đổi chác hay thuê mướm "

11 giờ ngày 14-3-1973, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng với các tướng lãnh Khiêm, Viên, Quang , bay trên chiếc Air Force 1, từ Sài Gòn tới Cam Ranh để họp mật với Tư lệnh QD2 là Thiếu tướng Phạm Văn Phú., từ Pleiku xuống. Cuộc họp bí mật diễn ra trong Tòa Tiểu Bạch Ốc Cam Ranh. Căn nhà trắng lịch sử này được dựng trên một đồi cát mịn, mắt hướng ra đ5i dương. Theo tai liệu cho biết, phí tổn xây cất vào năm 1965 lên tới cả triệu đô la . Mục đích để cho Tổng Thống Johnson và phái đoàn tới làm việc và nghĩ một đêm khi thăm viếng quân đội Mỹ đang chiến đấu tại VN. Từ sau năm 1973, Hoa Kỳ rút quân về nước, tiểu bạch dinh bỏ hoang, cho tới ngày 14-4-1975 được TT Thiệu xử dụng lần cuối cùng, để ban lệnh cho Tướng Phú bỏ QD2 và vùng Cao Nguyên, rút quân về phối trí bảo vệ miền duyên hải Trung Phần, vì Mỹ đã thực sự cắt hết quân viện.

Những ngày đầu tháng 4-1975, sau khi QD2 bỏ cao nguyên, QD1 cũng rút, bỏ ngỏ Quảng Trị, Huế, Đà Nẳng và Quảng Ngải. Tình hình Cam Ranh bắt đầu rối loạn vì nhiều đơn vị của QD1 được tàu Hải Quân di tản về đặc khu. Tư lệnh QD1 là Trung tướng Ngô Quang Trưởng, cùng với Sư đoàn Thủy quân lục chiến, đã được HQ 404 vận chuyển từ Đà Nẳng về Cam Ranh. Sau đó TQLC được HQ802 chở về Sài Gòn, còn Sư Đoàn 2 BB ở Quảng Ngải về Cam Ranh, thì chuyển tiếp vào Hàm Tân, trang bị và tiếp tục tới chiến đấu tại Phan Rang và Phan Thiết. Riêng HQ 403 kéo theo nhiều LCU của BC2TV, cùng các LCVP,LCM ..sau khi vớt SD22 Bộ binh từ Qui Nhơn về Cam Ranh, rồi được lệnh chở tiếp về Vũng Tàu. Những ngày cuối cùng SD22BB chiến đấu với DPQ.TK Long An cho tơi khi bị ra lệnh bỏ súng vào trưa ngày 30-4-1975, mới rã ngủ.

Lúc bấy giờ tại bán đảo Cam Ranh đông nghẹt quân số, đủ các đơn vị từ V1 và 2 di tản về. Sáng ngày 1-4-1975, Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải, dưới quyền chủ tọa của Phó Đề Đốc Diệp Quang Thùy, có mặt các tướng lãnh Lê Nguyên Khang,Bùi Thế Lân Lâm Quang Thi..bàn chuyện tử thủ Cam Ranh. Nhưng rồi sau đó, mạnh ai nấy lên trực thăng về Sài Gòn. Chiều cùng ngày, HQ 403 tức Hải Vận Hạm Ninh Giang, vào đón tân binh tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Cam Ranh. Tình hình nơi này kể cả thị xã Ba Ngòi , cũng không khác gì ở Đà Nẳng, Qui Nhơn, dân và lính tranh dành xuống được tàu thuyền, để khỏi bị lọt vào tay VC, nên bắn giết nhau loạn ngầu. Mãi tới sáng ngày 2-4-1975, Phó Đề Đốc Thùy mới rời Cam Ranh, bằng Hộ Tống Hạm Đống Đa 07. Cuối cùng là Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, sau khi thiêu hủy hết kho dụng cụ điện tử, trên đảo mới xuống Tuần Dương Hạm TrầnNhật Duật-HQ03, vào Ninh Chử Phan Rang để tiếp tục chiến đấu tại mặt trận Ninh Thuận đến ngày 16-4-1975. Hai giờ chiều cùng ngày, Sư đoàn 10 Việt Cộng vào Cam Ranh bỏ ngõ, sau khi tiếp thu thành phố Nha Trang không còn bóng một người lính nào..

2-TRANH CHẤP BIÊN GIỚI MIÊN-VIỆT :
Trong lịch sử của thế giới, sự tranh chấp lãnh thổ của các quốc gia liên hệ, là việc bình thường. Qua hai cuộc thế chiến 1 và 2, tại Âu Châu gần như không có nước nào không bị thay đổi diện tích và ranh giới. Gần nhất là Trung Cộng sau năm 1949, diện tích rộng lớn hơn so với thời trước, vì xâm lăng cưởng chiếm đất đai của nhiều quốc gia lân cận như Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương kể cả biên giới và lãnh hải, hải đảo của VN. Trái lại nước Nga mất gần ½1/2 lãnh thổ vì các nước cộng hòa tự trị đã dành lại độc lập sau khi đê quốc Sô Viết sụp đổ vào năm 1991. Mỹ, Mã Lai, Ấn Độ, Do Thái..cũng đâu có khác biệt " Nên tình trạng các nước trên bán đảo Đông Dương cũng không ngoại lệ, vì vùng này chinh chiến triền miên, mạnh được yếu thua, đưa đến hậu quả hai vương quốc Phù Nam và Chiêm Thành, vì thua trận đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Bởi Chân Lạp không có sử, do người xưa chưa biết dùng giấy để ghi chép, mà chỉ xữ dụng lá thốt nốt, nên không giữ được tài liệu quá 150 năm. Khi Pháp xâm chiếm Cao Mên vào năm 1864, đã mượn các tài liệu củ của Trung Hoa, Ấn Độ, Việt Nam, cùng các di tích khámphá ở miền Thủy Chân Lạp và đền Angkor, để viết bộ sử Cao Mên. Theo đó ta biết Chân Lạp là một nước nhỏ trong vùng rừng núi Ratakini, giáp giới phía tay nam hai tỉnh Kon Tum , Pleiku và nước Lâm Ấp., cùng một chủng tộc với người Khmer, tức là Người Việt gốc Miên ở Miền Nam VN ngày nay.

Năm 545 sau Tây Lịch, (STL), Phù Nam và Chân Lạp đánh nhau. Cuộc chiến kéo dài trong 82 năm, cuối cùng Phù Nam bị tiêu diệt năm 627. Nhưng đất nước chỉ hợp nhất trong thời gian ngắn ngũi, rồi thì nội chiến, tranh dành ngôi vua, khiến Chân Lạp bị chia thành hai nước : Lục Chân Lạp hay Cao Mên ở phía bắc và Thủy Chân Lạp hay Chân Lạp, tức Miền Nam VN ngày nay. Tuy nhiên vào năm 802, vua Javavarman II lại thống nhất Chân Lạp, lấy lại tên nước cũ là Kampuja, đóng đô tại Đền Angkor (Đế Thiên-Đế Thích) , mở đầu kỷ nguyên hùng mạnh, bành trướng đất đai tới Mã Lai và Chiêm Thành. Năm 1228 Chân Lạp bắt đầu suy tàn, nên luôn bị Thái Lan và Chiêm Thành tấn công, phải bỏ Angkor, dời đô về Nam Vang (1434), rồi Lovek (1516) .. Từ năm 1594 Chân Lạp bị Thái Lan đô hộ, đất nước suy tàn từ đó. Đồng lúc, Chiêm Thành cũng bị VN thôn tính vào năm 1697, khiến cho Kampuchia bị kẹt giữa hai quốc gia hùng mạnh đương thời, nên chỉ còn cách dựa vào một trong hai nước trên để sinh tồn. Tóm lại , sau khi chiếm được Phù Nam vào thế kỷ thứ VI, trải qua 11 thế kỷ, vua chúa Chân Lạp đã kh6ng hề thực hiện được một công trình gì, ngoài xây được ngôi Tháp Mười tầng ở Đồng Tháp. Đất đai hoàn toàn bỏ phế thành rừng buị, chứa đầy thú dư, chẳng những ở trên bờ, mà khắp sông rạch ttrong vùng, cũng đặt sệt điã mòng, cá sấu..khiến cho ai mới đặt chân tới vùng này, cũng kinh hồn bạt vía trước cảnh ma thiêng nước độc.

Năm Mậu Tuất (1658) thời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ở Nam Hà, người Việt được Vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân (Rama Thuppdey Chan) cho phép vào khai khẩn ruộng đất ở Vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa), mở đầu cuộc giao tiếp Việt-Mên. Năm 1674, Vua Nặc Ông Nộn bị Nặc Ông Đài dẫn quân Xiêm về cướp ngôi, phải chạy qua cầu cứu quân Nguyễn tại Dinh Thái Khang. Chúa Hiền Vương sai quân tiếp cứu, đuổi đánh Nặc Ông Đài và quân Xiêm ra khỏi thành Sài Gòn và Nam Vang. Từ đó luôn luôn có sự tranh chấp trong Hoàng Tộc và mỗi lần được quân Nguyễn giúp đỏ, là mổi lần cắt đất trả ơn, nên đến năm 1759 miền Thủy Chân Lạp, coi như hoàn toàn thuộc vào lãnh thổ của VN. Sau khi chiếm Nam Kỳ ,, Pháp cũng đô hộ Chân Lạp từ năm 1864 và bắt đầu kiểm kê dân số. Riêng người Việt gốc Miên tại Miền Nam VN năm đó rất ít, chỉ có 146.718 người, trong lúc người Việt tới 1.732.316 người. Tình trạng dân số cũng không tăng cho mấy. Năm 1965 dưới thời VNCH, người Việt gốc Miên ở Miền Nam VN chừng 600.000 người, sống tập trung nhiều nhất tại Vĩnh Bình, Sóc Trang, Bạc Liêu, Châu Đốc, An Giang, Kiên Giang, Chương Thiện..Tại Sài Gòn có chừng 1000 người. Khi vua Gia long thống nhất đất nước vào năm 1802, lúc đó người Việt gốc Miên không đông lắm nhưng vẫn được triều đình, xếp ngang hàng với người Việt. Vua còn đặt cho người Miên 6 Họ : Kim, Thạch, Sơn, Danh, Lâm..và Châu, để con cháu sau này dễ dàng truy tìm phả hệ, vì trước đó không có họ.

+*Biên Giới Việt-Miên :
Sau khi đặt xong nền đô hộ khắp toàn cõi Đông Dương, Pháp đã phân định lại ranh giới hai thuộc địa Nam Kỳ và Cao Mên, vì thể chế hai xứ khác biệt. Do đó, từ năm 1870 tới khi trao trả độc lập cho Kampuchia vào năm 1953, Toàn quyền Đông Dương và Quốc Vương Cao Mên, đã nhiều lần ấn định lại lằn ranh biên giới giữa Việt-Miên, qua các Nghị Định đồng ký vào ngày 9-7-1870, 15-7-1873 và các bản tu chỉnh đồng ký vào ngày 31-7-1914, 6-12-1935, 11-12-1936 và 26-7-1946. Cũng từ đó đất Nam Kỳ có tên trong bản đồ thế giới,qua cái tên do Pháp đặt là Cochinchine. Từ năm 1954 chế độ thực dân Pháp cáo chung trên bán đảo Đông Dương, thuộc địa Nam Kỳ lại trở về với Mẹ VN, qua danh xưng Miền Nam VN và thủ đô của VNCH đóng tại Sài Gòn.

Năm 1939, Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương là Jules Brevié chính thức cho vẽ lại bản đồ các nước Việt-Lào và Mên, để phân ranh giới hành chánh và an ninh tư pháp các địa phương. Ngoài ra cũng để phân chia rõ ràng các đảo củng như lãnh hải của hai nước trong Vịnh Thái Lan. . Bản đồ ranh giới này từ đó đến nay vẫn được các nước trong vùng kể cả Trung Hoa tôn trọng, mệnh danh là đường ranh giới Brevié. Theo đó, từ bờ biển giữa hai nước tại Hà Tiên và Krong Keb, nhìn ra Vịnh Xiêm La (Gulf of Siam) , vẽ theo góc 140 độ. Đảo Phú Quốc tuy nằm sâi trong lãnh hải Kampuchia tới 1,5 dặm nhưng vẫn thuộc phần lãnh thổ VN. Để tránh sự tranh chấp về sau, bản đồ Brevié đã cước chú ' Về vấn đề lãnh thổ, các đảo này giữ vị trí đặc biệt '.Nhưng tất cả rắc rối sau này, cũng đều do VC gây ra. Từ năm 1966 vì muốn lấy lòng Sihanouk và Khmer Đỏ, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã ký hứa sẽ tôn trong biên giới hai nước theo đường ranh Brevié năm 1939. Tại Hà Nội năm 1967, VC cũng đã ký ' Bản Tuyên Bố DRV' nhân danh nước VN Dân Chủ Cộng Hòa, tức Bắc Việt, công nhận biên giới hiện tại của Kampuchia theo đường ranh Brevié. Bời vậy, thừa dịp VC còn say men chiến thắng Miền Nam tại Sài Gòn, Polpot đã cho Khmer đỏ, tấn chiếm tàn sát đồng bào VN trên đảo Phú Quốc ngày 4-5-1975 và Đảo Thổ Châu ngày 10-5-1975, bắt theo 500 người Việt. Ngày 12-6-1975,sau khi bị VC tái chiếm giải thoát hai đảo Phú Quốc, Thổ Châu và chiếm thêm đảo Puolao Wai của Mien, phái đoàn Polpot bí mật tới thăm Hà Nội, đòi ký hiệp ước hữu nghị về giao thông, lãnh sự và định mốc biên giới nhưng Hà Nội từ chối. Tháng 5-1976, Phan Hiền tới Nam Vang thảo luận với Polpot về lãnh hải, chấp nhận theo đường ranh Brvié năm 1939, những đảo và biển nằm phía bắc đường ranh (trừ quần đảo Phú Quốc ) là cũa Kampuchia. Phía nam đường ranh thuộc VN. Hiền còn đề nghị vẽ lại đường ranh mới cho phù hợp với chủ quyền các đảo nhưng bị Polpot từ chối, vì cho là VC muốn chiếm một phần lớn biển của Miên. Tháng 7-1977 Phan Hiền tới Paris bị báo chí phỏng vấn, tại sao năm 1967 đã ký công nhận đường ranh Brvié, mà không chịu giải thích về đảo Phú Quốc, Hiền cho biết vì lúc đó Hà Nội không để ý tới vấn đề lãnh hải. Mặt thật vì Phú Quốc thuộc lãnh hải VNCH, nên có bị Miên lấy cũng vậy thôi, giống như trường hợp Hoàng Sa và Trường Sa, vì thuộc lãnh thổ của Miền Nam, nên Hồ Chí Minh đã bán cho Trung Cộng vào năm 1958.

Về vấn đề biên giới trên bộ giữa hai nước Việt-Miên, thực sự được đề cập sau năm 1954 khi ba nước Đông Dương đã độc lập. Để có ấn tượng về đường biên giới, không gì xác thực hơn là sự hiện diện của 12 ngôi chộ trời biên giới, chạy dài từ ngả ba tam biên Việt-Miên-Lào), tới vùng đất cuối cùng Hà Tiên, nằm trên Vịnh Thái Lan. Thời Pháp thuộc, biên giới Miên Việt, được tượng trưng bằng những cột mốc, bảng hiệu cắm cạnh các quốc lộ, chứ không có đồn ải hay đơn vị biên phòng canh gác kiểm soát. Từ năm 1955 về sau, sự giao thông giữa hai nước bị ngăn chận theo luật lệ của hai quốc gia, đã làm rõ nét đường ranh hành chánh, như ta đã thấy vẽ trên bản đồ.

Theo thứ tự , từ vùng tam biên tới cuối lãnh thổ của Vùng 2 chiến thuật, ranh giới của Quận Đức Lập (Quảng Đức) và Bù Gia Mập (Phước Long) . Vùng này núi non hiểm trở, nên ít có buôn Thượng hay đồn bót của chánh quyền, mà chỉ có môt con đường duy nhất là QL19, từ Pleiku sang tỉnh Stung-Treng của Cao Mên. Qua khỏi đường ranh biên giới về phía Kampuchia chừng 10 km, mới có một Buôn Apia của người Lơ. Giữa ranh giới hai tỉnh Phước Long và Quảng Đức, QL14 có một đường rẽ từ Miên tới Buôn Mê Thuột (Darlac). Trong địa phận của Vùng 3 Chiến thuật, từ Phước Long tới Tây Ninh, có nhiều đường thông thương qua biên giới Miên Việt. Tại Bình Long có QL13 là trục giao thông chính giữa hai nước thời Pháp thuộc. Đường này sau khi qua Sóc Penang trong quận Lộc Ninh (Bình Long) của VN, sẽ gặp quận Snoul, tỉnh Kratié (Miên) rồi chạy thẳng tới Stung-Treng và qua Vạn Tượng (Ai Lao) . Đây là con đường trong cuộc chiến Đông Dương 2, Bắc Việt xử dụng để chuyển quân tấn công Miền Nam. Về phía bắc tỉnh Tây Ninh, trước đó có QL22, nối liền thị xã qua các xã Tân Long, Tân Hội, Tân Hưng (Phú Khương), tới trạm cuối cùng ở biên giới tại Ấp Tầm Phô (Samach1) , chạy sang tỉnh Kompongcahm (Miên). Tây Ninh còn có một tỉnh lộ, từ tỉnh lỵ tới Ấp Tân Sinh Bến Sõi (khoảng 15km), và Xã Phưóc Tân (Phước Ninh) sát biên giới. Vì Bến Sõi chỉ cách Xã Bosmon, quận Romdoul(Komphong Chak) của Miên, một con rạch nhỏ, nên hai phía thường qua lại bằng đò chống sào. Nhưng quan trọng nhất trong vùng này, từ trước tới nay vẫn là Trạm Biên Giới ' Gò Dầu Hạ ' cũng ở trong tỉnh Tây Ninh. Từ xã Phước Tân (Phước Ninh) theo đường ranh, sẽ gặp Quốc Lộ số 1, từ Ải Nam Quan (Lạng Sơn), qua Hà Nội, Huế, Sài Gòn..tới đoạn chót ở biên giới là Gò Dầu Hạ Tây Ninh VN). Sau đó QL1 tiếp tục từ xã Bravet (quận Svay Teap - tỉnh Svay Riêng) của Miên, tới Nam Vang và Poipet, biên giới Miên-Thái về hướng tây bắc. Tại Gò Dầu Hạ, còn có nhiều đường mòn tới Bến Cầu,Bầu Gõ..vượt qua biên giới Kampuchia. Từ Tây Ninh, chạy suốt biên giới giáp ranh với tỉnh Svay Rieng (Miên), tời tỉnh Hậu Nghĩa (VN), còn có vô số đường thông thương giữa hai nước tại Chợ Rạch Tràm ,xã Phước Chỉ (Tây Ninh) và Ấp Tà Nu, xã Mỹ Quí (Hậu Nghĩa).

Vùng 4 Chiến thuật, bắt đầu tỉnh Kiến Tường, tại xã Bình Hiệp có đường thông sang Mesothngok tới Kompong Ro và một đường khác từ Tà Lóc qua Long Khốt VN. Sông Tiền Giang từ Miên vào biên giới VN tại xã Thường Phước, quận Hồng Ngự, tỉnh Kiến Phong . Phía bên kia là Ấp Kaskos, quận Peam Chor, tỉnh Preveng của Cam Bot. Phía tả ngạn sông Tiền, ngay biên giới là quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Giống như Gò Dầu Hạ, Thường Phước cũng có một chợ trời rất lớn, có từ thời Pháp thuộc tới nay vẫn còn tồn tại. Ở Tân An, Tân Châu VN, còn có đường sang Kos Thom, tỉnh Kandal. Đây là con đường chính thời Pháp thuộc, mà người Việt dùng để sang lập nghiệp tại Kampuchia lên tới nửa triệu người. Tiền Giang cũng là thủy lộ để các tàu từ VN tới NamVang, dù Miên đã có hải cảng Kompong Som (Sihanoukville) ở vịnh Thái Lan. Còn sông Hậu vào VN tại xã Khánh Bình, quận An Phú-Châu Đốc, đối viện với Benghi, Kosthom, tỉnh Kandal của Miên. Đây là con đường tới thủ đo Nam Vang gần nhất. Ranh giới hai nước ở đây là con sông đào nhỏ có từ thời Pháp thuộc, dùng để phân chia lãnh thổ hành chánh. Suốt biên giới dài giữa hai nước, chỉ có vùng An Phú - Tịnh Biên, rất phức tạp,vì nhiều người Việt có ruộng đất ở bên kia, do đó lính Miên thường lợi dụng vượt biên giới sang VN giết người cướp của, thời nào cũng có. Từ tỉnh lỵ Châu Đốc, có QL2 đi Tà Keo của Miên, qua trạm biên giới Tịnh Biên, trên bờ kinh Vĩnh Tế, do Nguyễn Văn Thoại đào từ thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Con kinh này ăn thông ra biển trên vịnh Thái Lan . Cuối cùng là QL17, từ Rạch Giá đến Hà Tiên (99 km), từ đó tới một Sóc Miên ở biên giới Prussey Srok, tới tỉnh Kampot đi Nam Vang.

*Xung Đột Việt-Miên , từ hận thù tới biên giới :
Trên đường khai hoang tìm sống, VN đã nhiều lần xung đột với người Khmer.,vô tình tạo thành mối thù truyền kiếp, giữa hai dân tộc khó lòng tháo gở được, dù thời gian đã phôi pha phần nào. Ngay đầu thế kỷ XVII, người Việt đã vao khai khẩn đất hoang tại Bà Rịa, Biên Hòa. Từ thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, vào năm 1658 tới Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát vào hậu bán thế kỷ XVIII, qua cuộc nam tiến, vùng Thủy Chân Lạp coi như hoàn toàn trở thành lảnh thổ của Đại Việt. Năm 1813 thời vua Minh Mệnh, Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt, đã đem 10 vạn quân tới Nam Vang, xây thành quách bảo hộ Chân Lạp, kéo dài tới năm 1840 Thiệu Trị nguyên niên, mới chấm dứt. Năm 1970 , vì muốn cứu Việt kiều sinh sống tại Kampuchia, bị người Miên ' cáp duồng' thảm tuyệt, sau khi Sihanouk bị lật đổ. Lần này QLVNCH lại vào đất Miên và giải cứu đem gần 100.000 đồng bào về nước. Cuối năm 1978 ba đảng cọng sản Tàu, Việt và Miên xung đột, đã gây cuộc chiến Đông Dương lần III thật đẳm máu. VC đã xua đại quân tiêu diệt Polpot và Khmer đỏ. Đồng thời chiếm đóng nước này tới năm 1989 mới rút về nước. Tất cả những oan khiên trên, làm cho người Việt sinh sống tại các làng mạc tiếp giáp với biên giới Miên, tứ Tây Ninh xuống tới Hà Tiên, cũng như tại các hải đảo nằm trong vịnh Rạch Giá, hầu như là nạn nhân của những cuộc tàn sát đẳm máu của Kampuchia, khi có dịp như thơi gian Khmer đỏ cầm quyền, từ ngày 30-4-1975 tới cuối năm 1978. Nhưng thê thảm nhất vẫn là số phận của người Việt tha phương , tới làm ăn trên đất Chùa Tháp. Ngày 2-6-1956,chính phủ Cao Mên cho phép VNCH đặt Tòa Đại Diện tại Nam Vang, do Ngô Trọng Hiếu đại diện. Ngược Lại Kampuchia cũng có Tòa Đại Diện ở Sài Gòn, do Sum Hiêng điều khiển. Trong lúc đó Sihanouk ngoài mặt tuyên bố theo chính sách Trung Lập, nhưng bên trong lại thiên vị và theo phe Cọng Sản Bắc Việt. Năm 1959, vì dính líu tới vụ chống Sihanouk, nên Hiếu được Phạm Trọng Nhân thay thế nhưng cũng kể từ đó Chính phủ Miên thù hằn VNCH ra mặt, nên gần như công khai ủng hộ Hà Nội khi cho Bắc Việt mở Phòng thương mại tại Nam Vang vào tháng 7-1962. Rồi ngày 17-8-1963, Sihanouk đoạn giao với VNCH, chỉ cho một Nhân viên thuộc Bộ Ngoại Giao Miền Nam, làm việc bên cạnh Tòa Đại Sứ Nhật Bản, lo về phần vụ liên hệ tới Việt kiều. Sau khi Sihanouk bị hạ bệ, ngày 10-6-1970, Việt -Mên lại tái lập bang giao trên cấp bậc đại sứ, cho tới khi VNCH bị sụp đổ vào tháng 5-1975.

Sau ngày VC và Miên Cộng chiến thắng, lập tức bùng nổ sự thù hận và xung đột mà hai đảng đã cố che giấu dưới lớp son phấn tình đồng chí anh em. đoàn kết. Tóm lại, tất cả nợ nần, lời vốn, chuyện xưa tích củ từ 300 năm về trước,,đều được Polpot và Khmer đỏ, đem hết trút vào người dân Miền Nam vô tội, mà khởi đầu là cuộc tấn công dành các đảo Phú Quốc, Thổ Châu..trong Vịnh Rạch Giá của VN. Đây là lần đầu tiên Cam Bốt gây hấn với người Việt bằng chiến tranh, để xác định chủ quyền lãnh thổ. Hành động chẳng hề xãy ra suốt thời Pháp thuộc và ngay cả thời VNCH, dù năm 1960 Sihanouk có làm lớn chuyện để đòi Phú Quốc những cũng chỉ trên phương diện ngoại giao mà thôi . Tóm lại những ác cảm mà người Miên đã nuôi dưỡng cha truyền con nối với người Việt, phần lớn được tạo ra bởi Sihanouk, suốt thời gian trị vì, luôn tác động người dân nước mình chống lại VNCH , qua những bịa đặt không hề có hay quá đáng. Sau này Polpot cũng vậy, để chống VN, đã phổ biến ' Hắc Thư' năm 1978, cực lực tố cáo VN đủ thứ, mục đích cũng chỉ để hâm nóng hận thù truyền kiếp của hai dân tộc. Tháng 4-1977, Polpot ban hành Nghị quyết 870, ra lệnh bắt tất cả Việt Kiều hay bất cứ ai liên hệ tới người Việt, tại Kampuchia. Sau đó, Khmer bắt đầu tấn công các tỉnh biên giới VN từ Tây Ninh tới Hà Tiên và công khai tuyên bố ' Lần này Khmer đỏ sẽ đánh chiếm lại Kampuchia Krom (Miền Nam VN) cũng như Prey Nokor ( Sài Gòn)., với lý luận ' Ta đã dựng được Angkor, đánh thắng Mỹ, thì cũng sẽ tiêu diệt được VN '. Đầu năm 1978, Polpot bắt đầu thanh trừng nội bộ, tàn sát hơn 60.000 người Chàm sống tại Kompong Cham, vì họ theo Hồi giáo và ở sát biên giới, nên phải giết hết để không còn ai làm nội tuyến cho VC.

Đêm 24-12-1978, Chu Huy Mẫn, chính ủy bộ đội VC khai hỏa tại Ban Mê Thuộc, tổng tấn công Khmer đỏ. Ngày 6-1-1979 cọng sản VN vào Nam Vang, Polpot tháo chạy về biên giới Miên-Thái, xóa tên Khmer đỏ. Chiều ngày 10-10-2005, Thủ tướng VC Phan Văn Khải và Thủ tướng Miên Cộng Hun Sen, ký Hiệp Ước Bổ Sung về biên giới, theo tinh thần văn bản mà hai nước đã ký vào năm 1985, thời gian VC đang đô hộ Kampuchia. Tuy nhiên nội dung của văn kiện hiệp ước, không ai biết gì vì chẳng bao giờ được phổ biến và quan trọng nhất, cũng không nói tới vụ tranh chấp đảo Phú Quốc, mà theo lời đồn đải VC cũng tính trả lại cho Kampuchia, như vụ đổi Cam Ranh cho Trung Cộng để lấy Hoàng Sa.

Theo đài BBC Luân Đôn thông tin ngày 17-10-2005, cựu hoàng xứ chùa Tháp là Sihanouk, tuyên bố sẽ ở luôn tại Bắc Kinh, nhờ Tàu giúp tranh đấu cho tới chết, để bắt VC trả lại cho Miên, lãnh thổ Kampuchia Krom, trong đó có Sài Gòn. Ngoài ra cũng không chấp nhận biên giới hiện tại Brevié năm 1939, trong đó có đảo Phú Quốc luôn là đề tài tranh chấp của Miên-Việt, dù thực tế quần đảo này thuộc về VN rất lâu đời, ngay khi Vua Gia Long Nguyễn Ánh còn tẩu quốc trước thế kỷ XIX.

*Quần Đảo Phú Quốc :
Kiên Giang nằm về phía tây nam VN, có diện tích 6.269 km2 và dân số thống kê năm 2000, là 1.494.433 người, tỉnh lỵ là thành phố Rạch Giá. Toàn tỉnh có đất liền chiếm 5629 km2, phần diện tích còn lại là hải đảo. Bờ biển Kiên Giang dài 200 cây số với phần lãnh hải và thềm lục địa tới 63.290km2. Hà Tiên là phần đất cuối cùng của VN, có biên giới chung với Kampuchia 54 cây số. Tỉnh có 105 đảo lớn nhỏ, trong số này có đảo Phú Quốc lớn nhất VN.

Phú Quốc hiện là một huyện có thủ phủ là thị trấn Dương Đông, cách thành phố Rạch Giá 120 km và Hà Tiên 45 km. Hình dáng của đảo thoai thoải, từ bắc xuống nam có 99 ngọn núi lớn nhỏ, ngoài ra còn có đồng bằng và nhiều khu rừng tự nhiên, chiếm diện tích hơn 37.000 ha. có nhiều gổ tốt cũng như các loại chim muông quí hiếm. Với diện tích 573 km2, dân số 45.000 người, chiều dài 50 km, nơi rộng nhất ở bắc đảo 25 km, xưa nay được người đời khen tặng là ' Đảo Ngọc', vì là một vùng đất hữu tình, phong cảnh đẹp, lại có nhiều bãi tắm trong sạch quanh đảo như Bãi Trường, Kem, Ghềnh Dầu, Rạch Tràm, Vẹm.. Đạy cũng là một địa phương nổi tiếng về công nghệ chế biến nước mắm cá biển, không thua gì Phan Thiết, nhờ hương vị ngọt thơm, đặc biệt là mắm Cá Cơm, có độ đặm đặc cao trên 40%, hằng năm sản xuất hơn 6 triệu lít. Ngư nghiệp ở đây phát triển rất mạnh, với hơn 2000 tàu thuyền đủ loại, hằng năm đánh bắt hơn 35.000 tấn cá và đủ loại các hải sản khác. Phú Quốc cũng có phi trường, từ Sài Gòn ra đảo mất 40 phút, trong khi đi tàu phải tới 8 giờ, mới vào thị xã Hà Tiên. Ngoài ra còn có hai ngư cảng An Thới và Hòn Thơm. Ở đây có đền thờ của Nghĩa Sĩ chống Pháp Nguyễn Trung Trực, người anh hùng đã đốt tàu Tây trên sồng Vàm Cỏ. Ngoài ra khắp đảo còn rất nhiều di tích của Vua Gia Long, lúc tẩu quốc vào những năm cuối thế kỷ XVIII. Ở đây còn nổi tiếng về hồ tiêu vì nồng thơm va một loại chó địa phương, có xoáy trên lưng, rất trung thành với chủ.

Đứng từ Nũi Nai của Huyện Hà Tiên, tới Mũi Đá Chông (Phú Quốc, đường thẳng này sẽ đi qua một quần đảo nổi tiếng hung hiểm từ cả trăm năm nay. Đó là quần đảo Hải tặc, gồm có các Hòn Kiến VàngKeo Ngựa, Đốc, Trực Mâu, Long Đước..mằm trong Vịnh Hà Tiên. Thời Pháp, nơi này có tên là Tiên Hải, hiện thuộc Huyện Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Đây cũng là nơi thuyền tàu đủ các nước như Thái, NamDương, Mã Lai, Phi, Kampuchia, VN kể cả Tàu..gặp gở trao đổi hàng hóa, mua bán mọi thứ. Thời VNCH , Vùng vịnh Rạch Giá-Hà Tiên thuộc trách nhiệm của Bộ Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải, mà Tư lệnh cuối cùng là Đại tá HQ. Nguyễn Văn Thiện. Bộ Tư lệnh đóng tại Phú Quốc với các đơn vị Hải quân trực thuộc như Duyên Đoàn 45 coi Bắc Đảo Phú Quốc và Hà Tiên.Duy6n Đoàn 44 đóng tại Kiên An-Hòn Tre, bao vùng Vịnh Rạch Giá , Rừng U Minh, sông Cái lớn, Cái bé. Duyên Đoàn 43 ở Sông Ông Đốc, Mũi Cà Mâu và Duyên Đoàn 42 ở Hòn Nam Du. Riêng Hải Đội IV có nhiều chiến hạm biệt phái, bao vùng tuần tiểu, bảo vệ Hải phận VN từ Mũi Cà Mâu, đến tận biên giới Miên Việt, trong Vịnh Rạch Gíá-Hà Tiên. Nhờ vậy tình hình rất yên tỉnh, ít khi xãy ra nạn hải tặc cướp bóc dân lành.

Sau tháng 5-1975, QLVNCH không còn nửa, nên trong vùng quanh quần đảo Hải Tặc , hầu như là sào huyệt của bọn cướp biển. Chúng thường giả dạng quân Kampuchia, vượt ranh giới lãnh hải của hai nước, cướp bốc ghe tàu đánh cá của VN, rồi kéo về đất Miên đòi tiền chuộc mạng, chuộc tàu thuyền. Đã có nhiều cuộc đụng độ giữa băng nhóm Hải tặc quốc tế và VC nhưng không làm sao dẹp được. Hiện nay vùng phân ranh lãnh hải giữa VN và Cam Bốt , trong Vịnh Thái Lan chưa giải quyết được. Theo luật biển quốc tế được qui định, thì tính từ mép nước của đảo hay đất liền ra xa 12 hải lý, gọi là Vùng kinh tế. Cũng tư mép nước ra 200 hải lý là hải phận quốc gia. Do tính chất đặc biệt của quần đảo Phú Quốc, tại đường ranh Brevié năm 1939 trên bản đỏ, thì lãnh hải của hai nước Miên-Việt, có chung một Vùng Biển Lịch Sử, mà người của hai nước đều có quyền tới khai thác, dánh cá..Lợi dụng nhược điểm này, bọn cướp biển từ các đảo chủ quyền cũa Miên, vượt tuyến phân định vùng nước chung trên, sang hải phận VN cướp bốc, tống tiền và giết hại ngư dân nước ta. Trong các vụ cướp này, ngoài hải tặc Miên, còn có cướp biển quốc tế đủ quốc tịch, trong đó có cả giặc Tàu. Từ tháng 10-1998, tỉnh KiênGiang ngoài các Đội Tự Vệ biển, còn có thêm lực lượng cảnh sát tuần tra bảo vệ lãnh hải. Nhưng làm gì được, nếu tình trạng lãnh hải giữa hai nước, chưa có một công ước minh định.

Ôi Nam Quốc Sơn Hà, nay đâu còn thuộc quyền Nam Đế Cư. Biết đến bao giờ Người Nước Việt, mới tự làm chủ mình để quyết định vận mệnh quốc gia -dân tộc.

Cuối tháng 10-2005
Viết tại Xóm Cồn
MƯỜNG GIANG

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.