Trong số trước, chúng tôi đã lược trình về tình hình chiến sự tại giới tuyến vào ngày 30/3/1972, khi CSBV đưa 45 ngàn quân vượt sông Bến Hải cường tập vào cụm tuyến phòng thủ của Sư đoàn 3 BB và các binh đoàn tăng phái tại phía Tây và Tây Bắc Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Sau 3 ngày liên tục gây áp lực nặng trên cụm phòng tuyến của trung đoàn 56 BB, CQ đã tập tung lực lượng pháo dữ dội vào căn cứ Tân Lâm (Carroll)- bản doanh của trung đoàn 56 BB vào sáng ngày 2/4/1972, đến chiều cùng ngày, nơi này đã thất thủ.
Sau khi tuyến Tân Lâm bị vỡ, tình hình chiến sự tại Quảng Trị đã trở nên nghiêm trọng. Chỉ sau 4 ngày CSBV tung 45 ngàn quân tấn công vào khu vực giới tuyến tỉnh Quảng Trị, lực lượng VNCH tại đây đã mất 53 khẩu trọng pháo đủ loại, trên 7 ngàn binh sĩ bị tử thương, bị thương, bị bắt, thất lạc đơn vị. Hầu hết các căn cứ phòng thủ đều bị mất, ngoài trừ các vị trí của Lữ đoàn 258 TQLC với các tiểu đoàn 1,3,6 TQLC tại các căn cứ Phượng Hoàng, Ái Tử và Đông Hà.
Trước tình hình nghiêm trọng, bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh đã tái phối trí lực lượng của các đơn vị trực thuộc và tăng phái để giữ vững các phòng tuyến trọng yếu còn lại.
Về các trung đoàn trực thuộc, Sư đoàn 3 BB chỉ còn lại trung đoàn 2 và trung đoàn 57 Bộ binh. Để giúp bạn đọc tiện theo dõi diễn tiến của các trận đánh tại chiến trường giới tuyến giữa các đơn vị của hai trung đoàn 2 và 57 BB với các trung đoàn CQ, chúng tôi xin lược trình tình hình trận liệt và sự phối trí lực lượng khi trận chiến vừa bùng nổ:
Trung đoàn 57 do trung tá Khương-trung đoàn trưởng-chỉ huy,trách nhiệm phòng thủ phía Bắc từ Quốc lộ 1 chạy dài tới bờ biển. Bộ chỉ huy trung đoàn và các đơn vị yểm trợ đóng tại căn cứ C1, hai tiểu đoàn phòng ngự hai căn cứ A2, A3. Tiểu đoàn thứ ba của trung đoàn có hai đại đội đang tái huấn luyện tại Đông Hà, thành phần còn lại bảo vệ căn cứ C1.
Trung đoàn 2 BB do trung tá Tùng-trung đoàn trưởng- chỉ huy, trách nhiệm phòng thủ các căn cứ C2, C3, A4. Bộ chỉ huy trung đoàn, đơn vị yểm trợ và 1 tiểu đoàn bộ binh đóng tại căn cứ C 3, cách quận lỵ Cam Lộ 3 km về phía Bắc, hai tiểu đoàn phòng thủ căn cứ C2 và A4. Trước ngày 30 tháng 3/1972, trung đoàn 2 BB trách nhiệm phòng thủ căn cứ Carroll (Tân Lâm), căn cứ Khe Gió và căn cứ Fuller (Tân Lâm Bắc). Tài liệu của cựu đại tá Turley, nguyên cố vấn Sư đoàn TQLC có mặt tại chiến trường Quảng Trị khi trận chiến xảy ra, đã ghi lầm tên các vị trung đoàn trưởng trung đoàn 2 và trung đoàn 57BB: trung tá Xáng là trung đoàn phó trung đoàn 57, không phải là trung đoàn trưởng; trung đoàn trưởng trung đoàn 2 là trung tá Tùng, không phải là trung tá Khương, vị trung tá này là trung đoàn trưởng trung đoàn 57BB; trung tá Khương đã giữ chức vụ trung đoàn phó trung đoàn 2BB vào thời kỳ tướng Giai-tư lệnh Sư đoàn 3 BB- còn là trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn nói trên)
* Trận chiến tại các tuyến chiến đấu của trg đoàn 2 và trg đoàn 57 BB
Trưa 30/3/1972, cùng lúc mở tấn công cường tập vào tuyến phòng ngự của trung đoàn 56 BB, CQ đã pháo dữ dội vào các vị trí đóng quân của hai trung đoàn 2 và trung đoàn 57 BB. Khoảng 2 giờ chiều cùng ngày, chiến xa và bộ binh CQ đã xuất hiện ở phía Tây Cồn Thiên (tức căn cứ A4). Chiều 30/3/1972, tiểu đoàn phòng thủ căn cứ A4 đã phải rút về cứ điểm C3 vì bị áp lực quá nặng của địch quân. Đến gần tối 30/4/1972, hai đại đội của tiểu đoàn thứ ba trung đoàn 57 đang thụ huấn tại Đông Hà đã được lệnh trở về đơn vị gốc để tăng cường bảo vệ căn cứ C1.
Trong khi pháo binh CQ tàn phá hầu hết các căn cứ hỏa lực do Sư đoàn 3 BB thì sự phản pháo của các pháo đội 105 ly và 155 ly gần như vô hiệu đối với loại pháo 155 ly nòng dài của CQ có tầm bắn xa gần 28 km. Tất cả các tiền cứ của hai trung đoàn 2 và 57 gần như tê liệt dưới những trận mưa pháo của CQ. Trong ba ngày liên tiếp 30, 31/3 và 1/4/72, trận địa pháo của CQ đã gây thiệt hại nặng cho các đơn vị trú phòng. Chiều tối ngày 1 tháng 4/1972, cùng lúc đè nặng áp lực lên các căn cứ do trung đoàn 56BB phụ trách, Cộng quân đã mở các trận tấn công quy mô hiệp đồng “pháo+ bộ+tăng” vào các vị trí của trung đoàn 2 và trung đoàn 57 Bộ binh. Chiều tối ngày 1 tháng 4/1972, tất cả các cứ điểm dọc theo cụm tuyến phòng thủ phía Bắc đã được lệnh di tản, trong đó có căn cứ Tân Lâm Bắc và Khe Gió.
Theo kế hoạch bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB, sự rút quân từ căn cứ A1, A4 và các cứ điểm khác, kể cả các đơn vị Địa phương quân đã diễn ra theo thứ tự của một cuộc di tản chiến thuật: đơn vị A yểm trợ cho đơn vị B rút, sau đó đơn vị A đi đoạn hậu. Dù đã được thiết kế kỹ, nhưng vẫn xảy ra những sai lầm nghiêm trọng tại căn cứ A 2 và C 1 do hai đơn vị của trung đoàn 57 BB trách nhiệm phòng ngự. Tại mỗi căn cứ này có 1 pháo đội được thiết đặt để yểm trợ hỏa lực. Thất bại trong cuộc triệt thoái khỏi 2 căn cứ này là do thiếu chuẩn bị xe để kéo đại bác, và để di chuyển dễ dàng, hai pháo đội đã buộc phải phá hủy và bỏ lại 12 khẩu đại bác gồm 6 khẩu 105 ly và 6 khẩu 155 ly.
Trung đoàn 57BB rút về vùng Bắc Đông Hà, trung đoàn 2 BB rút về Cam Lộ. 18 giờ ngày 1/4/1972, chuẩn tướng Vũ Văn Giai-tư lệnh Sư đoàn 3 BB đã cho lệnh các trung đoàn tái phối trí khẩn cấp lực lượng phòng thủ tại các vị trí trọng điểm. Quan niệm chiến thuật phòng thủ của tướng Giai là chiếm các vị trí có lợi thế phòng thủ dựa vào các chướng ngại thiên như đoạn sông chảy ra Cửa Việt và sông Hiếu Giang, con sông lớn thứ hai của tỉnh Quảng Trị, phát nguyên từ vùng thâm sơn phía Tây Bắc chảy ngang qua thị xã Đông Hà rồi ra biển. Nhân đây, chúng tôi xin trình bày thêm về tên một số con sông của tỉnh Quảng Trị đã bị ghi sai trong một số tài liệu chiến trường: sông Hiếu Giang chảy ra Cửa Việt chứ không phải là sông Miếu Giang; địa danh sông ngòi được ghi trong Quảng Trị Địa Dư Chí cũng không có sông Cửa Việt như tài liệu của Ủy ban Quân sử Hoa Kỳ và các bản đồ quân sự do Quân đội Mỹ ấn hành đã ghi, chỉ có đoạn sông thuộc thủy lộ sông Hiếu Giang, chảy từ ngã ba giao thủy sông này với sông Thạch Hãn ra đến Cửa Việt, tuy nhiên do thói quen lấy tên làng, xã để gọi tên sông chảy ngang địa phận, nên dân địa phương gọi là sông Cửa Việt, cũng như trường hợp sông Hiếu Giang chảy ngang Đông Hà được cư dân ở đây gọi là sông Đông Hà.
Trở lại với kế hoạch bố phòng theo quan điểm của tướng Giai, từ các lợi thế địa lý nói trên, lực lượng bộ chiến Sư đoàn 3 BB và các đơn vị tăng phái thành lập một cụm tuyến vòng đai phòng thủ liên hoàn từ Cửa Việt đến Đông Hà, cụm tuyến phòng thủ này được phân nhiệm cho các đơn vị theo kế hoạch như sau: các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân tỉnh Quảng Trị (thống thuộc quyền điều động của bộ Tư lệnh Sư đoàn 3BB) trách nhiệm án ngữ bờ Nam đoạn sông Cửa Việt từ bờ biển vào đến đất liền đúng 5 km. Trung đoàn 57 BB dàn quân lập các vị trí phòng thủ từ đó về hướng Tây đến Đông Hà. Từ Đông Hà về hướng Tây và phía Nam sông Hiếu Giang, trách nhiệm được giao cho trung đoàn 2 BB-bộ chỉ huy trung đoàn đặt tại Cam Lộ-cách Đông Hà gần 10 km đường chim bay về hướng Tây. Trung đoàn này được tăng cường thêm 1 thiết đoàn Kỵ binh. Cụm tuyến kế cận của trung đoàn 2 BBlà trung đoàn 56 BB, tuyến phòng thủ này được kéo dài về hướng Nam nối liền với cụm tuyến của các đơn vị thuộc lữ đoàn 147 TQLC.
Đến chiều ngày 2 tháng 4/1972, sau khi căn cứ Carroll thất thủ, tuyến phòng thủ nối liền với TQLC đã bị bỏ trống. Tuy nhiên, các cụm tuyến còn lại vẫn được hai trung đoàn 2 và 57 BB bảo vệ vững vàng. Cũng trong chiều hôm đó, chuẩn tướng Vũ Văn Giai đã bay thị sát các vị trí phòng thủ từ Cam Lộ đến Cửa Việt trong khi Cộng quân đang mở trận địa pháo vào nhiều cứ điểm dọc theo cụm tuyến phòng thủ nói trên. Sự hiện diện của vị tư lệnh chiến trường đã kích thích và tạo niềm tin cho quân sĩ. Trong ngày kế tiếp, mặc dù tình hình ở phòng tuyến phía Tây Nam Cam Lộ có xấu đi sau khi lữ đoàn 147 TQLC lục chiến triệt thoái khỏi căn cứ Mai Lộc, nhưng tại cụm tuyến Đông Hà-Cửa Việt, các đơn vị án ngữ tại khu vực này đã đẩy lùi và vô hiệu hóa các mưu toan vượt sông của CQ, gây thiệt hại nặng cho đối phương.
Cũng cần ghi nhận rằng trước khi trận chiến bùng nổ, tư lệnh Quân đoàn 1 bấy giờ là trung tướng Hoàng Xuân Lãm, cũng như tướng Giai đều quan niệm rằng: nếu CSBV tấn công, chính diện là vùng núi phía Tây, chứ không ngờ địch tràn qua vùng phi quân sự tấn công từ phía Bắc. Tướng Lãm là người Quảng Trị, từng dạy học ở quận lỵ Cam Lộ-cách khu vực căn cứ Carroll chưa đến 5 km đường chim bay, rất rõ địa lý ở khu vực phía Tây của tỉnh mình. Tướng Giai cũng đã có 6 năm gắn bó với chiến trường giới tuyến qua các chức vụ trung đoàn trưởng trung đoàn 2 Bộ binh, chỉ huy trưởng Tiền phương Sư đoàn 1 BB, tư lệnh phó Sư đoàn 1 BB trước khi được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Sư đoàn 3 BB được thành lập vào đầu tháng 10/1971, nên cũng rất thông thạo địa hình tại các quận phía Tây Bắc và Bắc của tỉnh lỵ Quảng Trị. Chính vì thế, ông đã dồn lực lượng để thiết lập cụm tuyến phòng thủ ở phía Tây.
Kỳ sau: Sư đoàn 3 BB, trận chiến ở tuyến Thạch Hãn.