Hôm nay,  

Đài Loan Thực Chất Chỉ Là Bước Đệm Để Trung Quốc Vẽ Lại Bản Đồ Quyền Lực Thế Giới

11/04/202500:00:00(Xem: 929)

Dai Laon
D-Day từng mở đường cho Hoa Kỳ tái lập trật tự thế giới. Giờ đây, Trung Quốc đang học lại bài học đó, nhưng viết theo kịch bản của riêng mình. Và Đài Loan chỉ là chương mở đầu, không phải hồi kết. (Nguồn: U.S. Naval History and Heritage Command.)

Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
 
Tuy nhiên, điều khiến Colin Flint, Giáo sư Khoa học chính trị tại Utah State University, cảm thấy thú vị là: Dù Trung Quốc hiện sở hữu một trong những lực lượng quân đội tiên tiến nhất thế giới, thì những suy đoán về chiến tranh lại được dựng lên dựa trên một công nghệ đã xuất hiện từ 80 năm trước; cụ thể là các Cảng nổi Mulberry (Mulberry Harbours), vốn đã giúp quân Đồng Minh đưa các phương tiện cơ giới lên bờ biển Normandy trong cuộc đổ bộ lịch sử ngày 6 tháng 6 năm 1944.
 
Là một chuyên gia nghiên cứu hàng đầu về lịch sử và địa lý – chính trị liên quan đến các Cảng nổi Mulberry trong Thế Chiến II, Giáo sư Flint cho rằng việc so sánh hoàn cảnh hiện tại với Chiến dịch Normandie năm 1944 có thể gây hiểu lầm rất lớn. Dù những chiếc sà lan hiện đại của TQ mang nhiều điểm tương đồng với mô hình lịch sử, thì tình hình chiến lược giữa TQ và Đài Loan ngày nay lại hoàn toàn khác biệt.
 
Khu vực Thái Bình Dương đang “nóng” lên?
 
Không thể phủ nhận, nguy cơ Bắc Kinh phát động một cuộc tấn công nhằm kiểm soát Đài Loan, hòn đảo mà Trung Quốc từ lâu tuyên bố là một phần lãnh thổ không thể tách rời của họ, đang là mối đe dọa an ninh nghiêm trọng nhất đối với các quốc gia trong khu vực Á Châu – Thái Bình Dương.
 
Dưới thời Tập Cận Bình, Bắc Kinh đã liên tục đẩy mạnh các tuyên bố cứng rắn đối với chính quyền Đài Bắc. Nhiều chuyên gia phân tích cho rằng, dù mang tính chiến lược để củng cố hình ảnh Trung Quốc trên trường quốc tế, việc gọi Đài Loan là “tỉnh phản loạn” hoặc “vùng lãnh thổ ly khai” đã thể hiện rõ ý định thống nhất lãnh thổ bằng vũ lực.
 
Về phía Hoa Kỳ, chính quyền Trump ngay từ sớm đã tỏ rõ lập trường coi Trung Quốc là mối đe dọa an ninh số một. Tuy nhiên, chính sách của Washington đối với việc bảo vệ Đài Loan vẫn chưa nhất quán và có phần mơ hồ, cũng tương tự như sự thiếu chắc chắn trong cách Trump định hình mối quan hệ với Bắc Kinh.
 
Ngoài yếu tố địa lý – chính trị, nếu Trung Quốc thực sự quyết định phát động một cuộc xâm lược Đài Loan, thì điều đó sẽ kéo theo một chiến dịch quân sự vô cùng phức tạp, một canh bạc đầy nguy cơ. Các chiến dịch đổ bộ từ biển lên đất liền vốn thường gây tổn thất nặng nề hoặc thậm chí thất bại hoàn toàn.
 
Thí dụ như chiến dịch Gallipoli trên bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ trong Thế Chiến I: quân Úc và New Zealand đã phải rút lui sau khi hứng chịu tổn thất lớn, mà không giành được chút lợi thế lãnh thổ nào. Trong Thế Chiến II, kế hoạch “nhảy cóc” qua các đảo của Hoa Kỳ để ngăn chặn quân Nhật Bản tuy thành công về mặt chiến lược, nhưng cái giá phải trả là vô vàn mạng sống.
 
Cái khó của một chiến dịch đổ bộ không chỉ là trận giao tranh ban đầu, mà còn ở khâu hậu cần: làm sao liên tục đưa binh linh và quân nhu tiếp tế đến được tiền tuyến. Trong quá trình đó, những chiếc sà lan giữ vai trò quyết định.
 
Những cảng nổi trong Thế Chiến II
 
Trong Thế Chiến II, khi quân Đồng Minh cân nhắc mở mặt trận tấn công Đức Quốc Xã bằng đường biển, Thủ tướng Anh Winston Churchill đã tỏ ra hoài nghi với kế hoạch đổ bộ lên bờ biển Pháp. Mối lo lớn nhất của Churchill và các tướng lĩnh của ông không nằm ở khả năng chiến đấu, mà là bài toán hậu cần cực kỳ phức tạp.
 
Họ lý giải rằng, nếu mở mặt trận tại Pháp, Đức có thể sẽ giữ quyền kiểm soát tất cả các cảng chính hoặc phá hoại chúng. Điều này đồng nghĩa với việc các phương tiện quân sự như xe tăng, đại bác, lương thực, binh lính và các nhu yếu phẩm không thể nào được đưa vào đất liền từ hậu phương thông qua hệ thống các cảng.
 
Để giải quyết vấn đề đó, quân Đồng Minh đã thiết lập các cảng nổi Mulberry Harbours – hệ thống cầu tàu nổi có thể lên xuống theo thủy triều, cho phép tàu thuyền cập bến và dỡ hàng trực tiếp.
 
Hệ thống này còn được bảo vệ rất cẩn mật: vòng trong là những khối bê tông khổng lồ được kéo từ Anh sang để tạo thành phần móng, còn vòng ngoài là các con tàu cũ bị cố ý đánh chìm để tạo thành lớp đê chắn sóng. Mulberry Harbours là một công trình vừa mang tính sáng tạo kỹ thuật cao, vừa là biểu tượng cho tinh thần ứng biến linh hoạt trong điều kiện chiến tranh.
 
Ngày nay, hình ảnh những sà lan Trung Quốc cho thấy công nghệ đã được hiện đại hóa vượt bậc, nhưng nguyên lý bảo đảm khâu hậu cần trong chiến dịch đổ bộ thì vẫn giống như xưa.
 
Nhưng có một điểm khác biệt rất quan trọng: trong Thế Chiến II, chiến dịch Normandy là một cuộc đổ bộ từ đảo (Anh) vào lục địa (Pháp), còn nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan, thì đó sẽ là từ lục địa vào đảo.
 
Cuộc chơi của các cường quốc theo kiểu Trung Quốc
 
Dù Cảng nổi Mulberry là một thành tựu kỹ thuật rất sáng tạo, nhưng đó cũng chỉ là một mắt xích trong chuỗi chiến lược lâu dài, bắt đầu bằng Chiến dịch Bolero (Operation Bolero): Anh thành căn cứ hậu cần khổng lồ, nơi tập trung lực lượng và thiết bị quân sự của Hoa Kỳ.
 
Cuộc đổ bộ D-Day chỉ là bước cuối cùng trong quá trình triển khai sức mạnh quân sự từ vùng duyên hải đến vùng viễn dương. Hoa Kỳ đã kiểm soát được vùng duyên hải ở Caribbean, Đại Tây Dương và Thái Bình Dương trước khi hành quân vào Âu Châu.
 
Còn với Trung Quốc, chiến lược này lại diễn ra theo trình tự ngược lại. Dù các sà lan sẽ rất hữu dụng trong một cuộc tấn công qua eo biển Đài Loan, nhưng Bắc Kinh xem hòn đảo này là trọng điểm trong vùng duyên hải, và họ muốn bảo vệ vùng biển này khỏi các thế lực bên ngoài.
 
Xét từ góc nhìn của Trung Quốc, sự hiện diện liên tục của quân đội Mỹ dọc theo vùng duyên hải nước mình kể từ sau Thế Chiến II là biểu hiện rõ rệt của chiến lược bao vây dài hạn. Với các căn cứ tại Okinawa, Guam và Phi Luật Tân, Washington tạo thành một “chuỗi phong tỏa” có thể ‘trói chân’ Bắc Kinh. Nhưng nếu kiểm soát được Đài Loan, họ sẽ có thể phá vỡ mắt xích trong chuỗi bao vây ấy.
 
Song song đó, Trung Quốc cũng không ngần ngại mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu. Họ đã xây dựng lực lượng hải quân viễn dương, thiết lập căn cứ quân sự ở Djibouti, và thúc đẩy Sáng kiến Nhất Đới – Nhất Lộ (Belt and Road Initiative, BRI) để trở thành một thế lực kinh tế – chính trị vươn cánh tay dài ra khắp các đại dương: Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Bắc Băng Dương và Đại Tây Dương.
 
Sà lan đổ bộ có thể chỉ là bước đầu trong chiến lược mở rộng sang vùng viễn dương của TQ – trái ngược với Hoa Kỳ thời Thế Chiến, vốn chỉ tung ra Cảng nổi Mulberry sau khi đã nắm chắc các vùng biển xung quanh như Caribbean, Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
 
Dấu hiệu của cục diện mới
 
Việc phân tích kỹ thuật và gợi lại lịch sử từ các Cảng nổi Mulberry là một cách hiệu quả để đánh giá các sà lan đổ bộ mới của Trung Quốc, và giúp ta hình dung rõ hơn về quy mô chiến lược của địa lý – chính trị hiện đại. Cũng như trong Thế Chiến II, căng thẳng giữa Trung Quốc và Đài Loan ngày nay không chỉ đơn thuần là một xung đột khu vực, mà là một phần trong tiến trình các cường quốc tìm cách khẳng định vị thế trên toàn cầu, và chiến trường lần này là eo biển Đài Loan. Nói cách khác, điểm tương đồng lớn nhất với Cảng nổi Mulberry không nằm ở phương diện kỹ thuật, mà ở vai trò lịch sử của nó trong việc định hình lại trật tự địa lý – chính trị.
 
Và nếu sự hồi sinh của công nghệ đổ bộ là điềm báo cho một cuộc xung đột sắp tới, thì điều trớ trêu nhất là Trung Quốc sẽ học hỏi và vận dụng chính công nghệ từng giúp Đồng Minh giành chiến thắng ở Âu Châu để khẳng định vị thế tại Tây Thái Bình Dương. Trong khi đó, chính quyền Trump lại đang nghi ngờ giá trị chiến lược của các căn cứ Hoa Kỳ tại châu lục này, vốn được xây dựng bằng các Cảng nổi Mulberry cùng biết bao máu xương quân nhân từ hơn 80 năm trước.

VB biên dịch
Nguồn: “Chinese barges and Taiwan Strait drills are about global power projection − not just a potential invasion” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các cuộc thăm dò cho thấy mức độ ủng hộ Trump của cử tri đang ở mức thấp kỷ lục đối với một nhà lãnh đạo sau ba tháng đầu của nhiệm kỳ. Đa số phản đối chính sách thuế quan và cắt giảm lực lượng nhân sự liên bang của ông.
Hành động công kích đầy bất ngờ của Tổng thống Trump nhắm vào nền giáo dục đại học đã vô tình đánh thức tinh thần phản kháng của Harvard cùng hơn 100 trường đại học trên khắp 40 tiểu bang. Sự kiện này cũng để lại một bài học đáng suy ngẫm: nhượng bộ và đầu hàng trước những áp lực ngang ngược, vô lý không phải là cách tồn tại bền vững cho bất kỳ tổ chức nào. Sự việc khởi đầu với lá thư ngày 11 tháng 4 từ chính quyền Trump, trong đó đưa ra hàng loạt yêu cầu đối với Đại học Harvard. Ngay lập tức trường Harvard từ chối, vậy là chính phủ thẳng tay đóng băng khoản ngân sách tài trợ trị giá 2.3 tỷ MK. Ngoài ra, Trump còn dọa tước bỏ quy chế miễn thuế của trường. Hành động này bị nhiều người xem là sự lạm quyền nhằm chi phối một cơ sở giáo dục tư thục, và đã vô tình khơi dậy làn sóng ủng hộ quyền tự chủ của các đại học trên khắp Hoa Kỳ.
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.