Hôm nay,  

‘Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha’– Cuốn tự truyện của hai thế hệ

28/03/202500:00:00(Xem: 974)

040525-Kalynh-Ngo-CoffeeFactory-IG-Event-Banner-Viet-English-v3
Bìa sách ấn bản tiếng Việt và tiếng Anh.
 
 
“Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” (nguyên bản ‘My Vietnam, Your Vietnam’) không chỉ là tự truyện của cha và con, kể lại hành trình đi tìm nguồn cội của tác giả, Christina Võ, mà còn là cách cô “hòa giải” – chữa lành vết thương giữa hai thế hệ – giữa cô và người cha, ông Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y VNCH, cũng là đồng tác giả.
 
Hai căn phòng, hai thế hệ
 
Xuyên suốt 320 trang của cuốn tự truyện “Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha,” tác giả dẫn người đọc qua lại giữa hai căn phòng, một của cô, và một của cha mình, người đàn ông luôn sống nửa đời còn lại với nỗi đau mất quê hương miền Nam, nơi ông gọi là “Việt Nam home” (nhà) hoặc “motherland” (Đất Mẹ.)
 
Căn phòng của ông bắt đầu với ký ức về những ngày cuối cùng của Tháng Tư, về những cơn sóng dữ ngoài biển khơi…
 
“Trên chuyến hải hành đến Mỹ, tôi vẫn hay nhìn chằm chằm vào sóng biển bao la, cố tìm kiếm một cảm giác bình yên, để rồi một ngày nhận ra mình có thể tìm thấy sự bình yên đó ở một đất nước khác, trong khi vẫn ôm trong lòng một tình yêu sâu đậm, và khao khát về đất Mẹ. Đó là sự chia rẽ sâu đậm đọng lại trong tôi suốt cuộc đời.” (Trích trang 4)
 
Căn phòng của Christina bắt đầu bằng lời thú nhận: “Tôi chưa bao giờ tưởng tượng rằng Việt Nam sẽ có một chỗ đứng nổi bật trong câu chuyện đời tôi. Tôi lớn lên ở các thị trấn nhỏ ở vùng Đông Nam và Trung Tây, nơi chưa đến 1% dân số gốc Á. Tôi chưa từng có ý định thăm (Việt Nam) chứ đừng nói đến việc sống ở đó. Rất dễ dàng để phủ nhận dòng máu Việt Nam đang chảy trong tôi giữa một biển người da trắng.”
 
Cả ông Nghĩa và người vợ quá cố của ông, mẹ của Christina, đều chôn vùi quá khứ thuyền nhân của họ. Chưa bao giờ chị em của Christina nghe cha mẹ mình kể về lý do vì sao họ được sinh ra ở Mỹ? Chưa bao giờ ông Nghĩa và vợ nói tiếng Việt với hai người con gái của họ. Christina và chị gái chỉ biết lần tìm, dò dẫm, tự kết nối và tưởng tượng về một nơi xa lạ qua những tấm ảnh trắng đen được cất giữ dưới tầng hầm của ngôi nhà. Cô xa lạ cả với Phở, món ăn mang căn cước của người Việt Nam.
 
“Tôi hỏi chú của tôi vì sao người ta có thể ăn một bữa ăn thịnh soạn như thế vào buổi sáng? Chú tôi trả lời, ‘Nếu con đến Việt Nam, con sẽ hiểu.’”
 
Cô xa lạ với cả chính tên thật của mình: Tuyết. Cha của cô đặt tên cho cô là Tuyết vì cô được sinh ra vào mùa Đông. Chị của Christina, tên Thu, vì cô ra đời và mùa Thu vàng rực.
 
Tất cả những gì mang bản sắc của người Việt Nam như chai nước mắm, chai tương ớt, Christina dấu biệt mỗi khi có bạn đến chơi nhà. Ngay chính trong gia đình, cô không được “chào đón” về nguồn gốc của mình, thì làm sao cô đủ tự tin và tự hào để giới thiệu với bạn bè, “Tôi là người gốc Việt.”
 
Sự thật, đó không phải là sự lựa chọn của Christina, và càng không phải là điều vợ chồng ông Nghĩa mong muốn. Tại căn phòng của mình trong “Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha,” ông Nghĩa đã cho độc giả hiểu câu trả lời.
 
Từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi ông nhìn thấy chỉ có hai tương lai dành cho ông ở miền Nam: một là chấp nhận chính sách hà khắc của cộng sản, hai là chết trong ngục tù của cộng sản. Ông chọn phương án thứ ba: di tản.
 
Ông bắt đầu chuyến hải hành ở đảo Phú Quốc, rồi đến Guam, rồi đến Fort Indiantown Gap, Pennsylvaina, Connecticut. Từ đây, cuộc đời của ông bắt đầu mang căn cước “tỵ nạn.” Cũng chính là lúc ông đóng chặt cánh cửa tâm hồn, xoá hết tất cả dấu vết ràng buộc với cuộc chiến và miền Nam không còn. Ông cắt luôn cả ngôn ngữ mẹ đẻ khi đối thoại với hai người con gái. Duy nhất một thứ dính chặt vào linh hồn ông, bất di bất dịch, đó là tình yêu quê hương.
 
Yêu quê hương bao nhiêu, ông Nghĩa xa cách và kiệm lời với con của mình bấy nhiêu. Chưa bao giờ ông và Christina ngồi với nhau, nói chuyện với nhau đến mười câu. “Những câu trả lời của ông luôn là ‘Yes’ hoặc ‘No’. Nhưng ông nói chuyện với bệnh nhân rất nhẹ nhàng, rất chu đáo, ân cần,” Christnia nói trong lần trò chuyện qua Zoom về cuốn tự truyện của cô và cha mình.
 
Trong căn phòng của ông Nghĩa, độc giả sẽ tìm thấy một lịch sử tóm lược của Việt Nam từ những năm 50, về một Sài Gòn mà ông nhắc rằng: “đã từng được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông.” Và ông khẳng định: “Cho dù đã qua rất lâu, tôi vẫn nhớ Sài Gòn như mới ngày hôm qua. Tôi có thể tưởng tượng hình ảnh tôi đang đi dọc Đại Lộ Nguyễn Huệ, ngồi trên bến cảng Bạch Đằng ngắm dòng sông Sài Gòn uốn khúc, chậm rãi chảy qua thành phố, lao qua những con phố chật hẹp đông đúc trên chiếc xe máy Honda, cố tránh những tài xế liều lĩnh, và ăn phở trong nhà hàng.”
 
“Sài Gòn mà tôi nhớ là một thành phố sôi động với một quá khứ phong trần, hào sảng, đã trói chân người thành phố như một phụ nữ giữ chặt người yêu của mình bằng sự quyến rũ. Dù Sài Gòn mà tôi biết và yêu đã cách xa cả đại đương nhưng tôi vẫn ôm cô ấy vào lòng.” (Trích trang 150)
 
Hàn gắn và hòa giải
 
Nếu trong căn phòng của ông Nghĩa được bơm đầy bình khí quyển của tình yêu quê hương và nỗi xót xa chất ngất khi xa Sài Gòn, thì căn phòng của Christina, ngược lại, là những quả bóng căng tròn vì chứa đựng sự háo hức tìm về nguồn gốc của mình.

Hà Nội là nơi cô chọn trở về đầu tiên. Sài Gòn là nơi cô đến sau đó. Christina đã quay về Việt Nam ít nhất hai lần sau chuyến đi đầu tiên năm 2002. Đó cũng là lần đầu tiên cô biết mình được gọi là “Việt kiều.”

Chưa bao giờ cô thẳng thắn hỏi cha rằng ông nghĩ thế nào về việc cô đi Việt Nam? Ông cũng không chủ động nói suy nghĩ của mình. Nhưng cô luôn tò mò muốn biết liệu ông có phản đối hay không? Có ủng hộ không?

Mãi cho đến ngày nay, Christina vẫn không có câu trả lời. Cô tự hỏi: “Làm thế nào để tôi hiểu hoàn toàn về Việt Nam của ông? Khi mà ông chưa bao giờ muốn nói với tôi.” Ngay cả khi kết thúc chuyến đi và quay về Mỹ, cô và cha cũng không nói về Việt Nam.

Tuy nhiên, từ chính chuyến đi này, cô đã bắt đầu hiểu được tình yêu cha của mình dành cho miền Nam Việt Nam, dành cho Sài Gòn. Ít ra, ông bắt đầu gửi cho cô những gì ông đã viết.

“Tôi thấy một cảm giác mất mát, đôi khi là một sự oán giận rất lớn trong những gì ông viết. Ngược lại, tôi viết về Hà Nội qua lăng kính cá nhân rõ ràng, dựa trên những năm tôi sống và làm việc ở đó. Tôi không viết về thăng trầm của lịch sử (mặc dù tôi thừa nhận và thông cảm với những đau khổ mà nó gây ra cho hàng triệu người, kể cả gia đình tôi,) bởi vì, giống như 60% người Việt Nam sinh ra sau chiến tranh, nó không chỉ là sự hiểu biết của tôi về Việt Nam.” (Trích trang 283)

Từ đó, cô nhận ra rằng cha và cô sẽ không bao giờ hiểu được tình yêu quê hương của nhau và có họ sẽ không bao giờ nói (trực tiếp) về Việt Nam. “Nhiều năm qua, những gì tôi và ông biết về nhau và về hai đất nước Việt Nam của chúng tôi đều thông qua những gì chúng tôi viết – những từ ngữ chúng tôi trao đổi qua lại qua email,” Christina nói.

Tôi hỏi Christina, “Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” có phải là một “sự hòa giải” hay không? Cha của cô, sau nửa thế kỷ, đồng ý cùng với cô xuất bản một cuốn tự truyện, có phải là “sự hòa giải” hay không? Christina trả lời rất mạch lạch:

“Tôi chỉ có thể nói về sự hòa giải cho chính mình chứ không phải cho cha tôi, không phải cho thế hệ của tôi và không phải cho thế hệ của ông.”

“Trở về Việt Nam, đó là một hình thức hòa giải. Đó là sự hiểu biết nhiều hơn của tôi về quê hương tổ tiên, về cha mẹ tôi, và đất nước nơi họ gặp nhau. Đó là một hành động kết nối lại lịch sử của gia đình và riêng tôi. Và sự hòa giải giữa cha và tôi, đã không thật sự bắt đầu cho đến khi tôi 40 tuổi.”

Chỉ còn khoảng một tháng nữa là tròn 50 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, 30 Tháng Tư, 1975 – 30 Tháng Tư, 2025. Khi một thực thể – với tên gọi Sài Gòn – không còn nữa thì đó cũng chính là lúc bắt đầu cuộc di tản vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại Việt Nam.
 
Nửa thế kỷ trôi qua, vết thương cũ chưa thể liền da trong tâm trí của hàng triệu người ra đi năm đó. Hình ảnh của một “Sài Gòn đang hấp hối” vẫn là bức tường đá đứng trước hai chữ “hòa giải” theo nghĩa rộng. Trong khi đó, có một thế hệ quyết tìm về nguồn cội để xóa tan sự “lạc lõng” đối với nơi gọi là “quê cha đất tổ” của họ. Christina Võ là một trong những người ấy.
 
Cô nói: “Tôi tin rằng sự hòa giải bắt đầu từ bên trong, sau đó nó chuyển thành những biểu hiện bên ngoài của cuộc sống chúng ta, bao gồm gia đình, cộng đồng, các mối quan hệ rộng lớn hơn và thậm chí cả quan niệm của chúng ta về nhà, quê hương, và tổ quốc.”

Cứ như thế, trong căn phòng của mỗi người, tức từng chương nhỏ trong cuốn sách 320 trang của “Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha,” ông Nghĩa và Christina kể lại cuộc hành trình của đời mình, của hai thế hệ.
Kalynh Ngô
 
Độc giả có thể tìm mua sách tiếng Việt, bản dịch của Kalynh Ngô tại:
 
hoặc 
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà. Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.
Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có...
Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. Thơ chị không trừu tượng, không có những ý tưởng tổng quát, mà chứa đầy sự kiện, các chi tiết. Có một truyền thống văn hóa và tinh thần ở đó, trong những bài thơ có tính hiện đại và đương đại của chị. Thơ Bùi Mai Hạnh trực tiếp mô tả, trong khi hàm chứa những yếu tố triết lý lặng lẽ. Mối quan hệ của chị với người khác, trong tình bạn, trong tình yêu, là những mối quan hệ sâu đậm, mạnh, khó khăn. Tất cả các đề tài đều có thể có mặt: sự chống trả quyết liệt đối với số phận, sự đề kháng xã hội, sự sợ hãi và hèn yếu, tất cả có mặt trong thơ Hạnh.
"Bạt" của thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho tập thơ của ba người...
Một ngày đầu thu, ngồi viết đôi trang về thơ của ba nữ lưu thời nay, sao bỗng thấy lòng xúc cảm lạ thường. Như ngày nào khi dạo chơi trong khu vườn Gitanjali bỗng gặp lại bông siêu ly thuở còn mơ mộng. Như ngày nào khi hoàng hôn xuống lái xe qua cây cầu cao ở Baton Rouge bỗng thấy vầng trăng lồng lộng trên sông. Hay như cách đây hơn mười năm, khi đi chơi vùng biển Laguna bỗng gặp lại người xưa - đầu đội nón rộng vành, mang kính đen, ngồi dưới bóng dù, tay lật xem thơ Tôi Cùng Gió Mùa. Vậy đó. Xin mời bạn đọc theo dõi những trang sau đây viết về ba nhà thơ nữ: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh. Ô, lần đầu tiên ba nhà thơ nữ họp mặt nhau trong cùng một tập thơ. Một cuộc hội ngộ tuyệt đẹp...
Những Ngày Thơ Ấu của Võ Phú là cánh cửa mở ra thế giới tuổi thơ, tựa một bản giao hưởng của nỗi nhớ, nhưng cùng lúc chính là tiếng vọng của văn học Việt Nam hải ngoại, vốn từ lâu vẫn luôn phải đối diện với những câu hỏi không dễ trả lời: Chúng ta viết gì? Viết cho ai? Và viết bằng ngôn ngữ nào?
Tạp chí Ngôn Ngữ, trong thời gian qua đã hân hạnh thực hiện được chín tuyển tập, tương đối đầy đủ về chín tác giả nhưng toàn là phái nam. Lần này là lần đầu tiên, một bàn tay hoa trong văn học nghệ thuật Việt Nam, dành cho Ngôn Ngữ vinh hạnh này: nữ sĩ Nguyễn Thị Khánh Minh...
Tôi gấp sách lại ở “Phần IV – Thơ” quyển “Trịnh Y Thư – Văn chương Nghệ thuật và Những điều khác”. Dừng lại để ngẫm xem những gì còn đọng lại trong đầu kể từ chương I cho đến hết chương III...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.