Hôm nay,  

Tu Chính Án 19: Phụ Nữ Hoa Kỳ Và Cuộc Đấu Tranh Giành Quyền Bầu Cử

21/03/202500:00:00(Xem: 1113)

tu chinh an 19
Tu Chính Án 19 là cả một chặng đường gian truân của quyền bầu cử dành cho phụ nữ Hoa Kỳ. Dù vậy, con đường tiến tới bình đẳng thực sự vẫn còn nhiều thử thách. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
 
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng.
 
Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
 
Chỉ với một câu đơn giản nhưng đầy quyền lực này, một rào cản pháp lý quan trọng đã bị xô ngã, giúp hàng triệu phụ nữ có thể thực hiện quyền công dân cơ bản nhất: quyền được đi bỏ phiếu.
 
Sau nhiều năm đấu tranh gian khổ của các nhà hoạt động nữ quyền, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Tu Chính Án 19 vào ngày 4 tháng 6 năm 1919. Tuy nhiên, phải đến tháng 8 năm 1920, tu chính án này mới chính thức trở thành luật, mở ra một chương mới trong lịch sử nước Mỹ sau hơn 130 năm lập quốc.
 
Tuy nhiên, chiến thắng này không đến một cách dễ dàng. Đằng sau nó là hàng thập niên đấu tranh không mệt mỏi của hàng ngàn phụ nữ trên khắp Hoa Kỳ.
 
Từ những năm 1840, phong trào đòi quyền bầu cử của phụ nữ bắt đầu hình thành với sự tổ chức chặt chẽ và quyết tâm cao độ. Nhưng mục tiêu này hầu như là điều bất khả thi vào thời điểm đó. Năm 1848, nhà hoạt động Elizabeth Cady Stanton tổ chức hội nghị đầu tiên về nữ quyền tại Seneca Falls, New York.
 
Thời điểm đó, giành được quyền bầu cử cho phụ nữ dường như là một giấc mơ xa vời. Xã hội lúc bấy giờ áp đặt rất nhiều khuôn khổ lên phụ nữ. Họ không được xuất hiện ở chỗ công cộng hay phát biểu trước công chúng. Cuộc đời của họ bị kiểm soát bởi cha, chồng hoặc anh trai. Đa số phụ nữ không có quyền ký kết hợp đồng, không được phép đi làm bên ngoài, không có quyền thừa kế hay sở hữu tài sản, và cũng không được đi học đàng hoàng.
 
Thế nhưng, bất chấp mọi khó khăn, phụ nữ trên khắp Hoa Kỳ vẫn kiên trì đấu tranh để giành lại quyền bầu cử cho mình. Susan B. Anthony, một trong những nhà hoạt động tiên phong, từng viết rằng: “Sẽ chẳng bao giờ có sự bình đẳng thực sự nếu phụ nữ không được trực tiếp tham gia soạn luật và bầu chọn các nhà lập pháp.
 
Quan điểm này đã trở thành kim chỉ nam, được truyền cảm hứng và tiếp nối qua nhiều thế hệ đấu tranh vì quyền bầu cử của phụ nữ.
 
Một đoạn đường dài đầy chông gai
 
Đó là một cuộc đấu tranh đầy gian nan. Có những nhà hoạt động sẵn sàng bất chấp luật pháp, bỏ phiếu trái phép và chấp nhận bị bỏ tù. Có những người dũng cảm xích mình vào cổng Tòa Bạch Ốc để lên tiếng đòi công lý, ngay cả khi bị bắt giữ cũng quyết tâm phản kháng, từ chối lao động trong tù. Nhiều người khác cũng đã kiên trì đấu tranh bằng cả những phương thức ôn hòa lẫn các hành động quyết liệt.
 
Thắng lợi đầu tiên đến từ miền Tây Hoa Kỳ. Ở một số tiểu bang như Wyoming, Colorado và Utah, các ông lập pháp tin rằng mở rộng quyền bầu cử cho phụ nữ sẽ khuyến khích họ đến sinh sống tại những vùng lãnh thổ thưa thớt dân cư. Nhưng đây không phải là được các ông ban phát ơn huệ, mà là thành quả của một cuộc đấu tranh bền bỉ suốt nhiều năm.
 
Dù quyền bầu cử của phụ nữ dần được công nhận ở một số tiểu bang, phong trào đấu tranh vẫn tiếp tục trên quy mô toàn quốc trong suốt thế kỷ 19. Các nhà hoạt động bị khinh miệt, bỏ tù, đánh đập, thậm chí bị cưỡng ép ăn uống khi tuyệt thực, nhưng họ vẫn kiên cường chống lại những định kiến xã hội áp đặt lên phụ nữ thời bấy giờ.
 
Bước sang đầu thế kỷ 20, phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ chuyển hướng sang một mục tiêu lớn hơn: thúc đẩy thông qua một Tu chính án trong Hiến pháp. Họ triển khai nhiều chiến lược khác nhau, từ việc tổ chức các cuộc tuần hành lớn đến kiên trì biểu tình trước Tòa Bạch Ốc suốt nhiều năm. Và họ đã dần dần thay đổi quan điểm của dư luậnv về quyền bầu cử của phụ nữ. Mặc dù dự luật đầu tiên về vấn đề này đã được trình lên vào năm 1878, nhưng phải đến 41 năm sau, Quốc hội mới chính thức thông qua và chuyển đến các bang để hoàn tất quá trình chuẩn thuận.
 
Tương lai của nữ quyền
 
Dù Tu Chính Án 19 đã trao quyền bầu cử cho phụ nữ, nhưng không phải tất cả phụ nữ đều được hưởng quyền lợi như nhau ngay lập tức. Trong suốt thế kỷ 20, phụ nữ da màu vẫn thường bị cản trở tại các điểm bỏ phiếu. Trong khi đó, phụ nữ bản địa và phụ nữ gốc Á Châu phải đối mặt với những rào cản pháp lý liên quan đến quyền công dân, khiến họ không thể thực hiện quyền bầu cử trong nhiều năm.
 
Tu chính án này cũng chưa thể mang lại sự bình đẳng trọn vẹn. Do đó, một dự thảo Tu chính án mới đã được đệ trình, nhưng đến nay vẫn chưa được thông qua. Tháng 4 năm 2023, nỗ lực kéo dài thời hạn chuẩn thuận đã thất bại tại Thượng Viện vì chỉ có 51 TNS ủng hộ, trong khi cần tới 60 phiếu để có hiệu lực.
 
Tuy còn nhiều khó khăn, có một điều không thể phủ nhận: phụ nữ ngày nay đang nắm quyền lực chính trị mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dù Hoa Kỳ vẫn chưa từng có nữ tổng thống, tỷ lệ cử tri nữ đi bầu luôn cao hơn so với nam giới.
 
Cung Mi sưu tầm
 
Nguồn: “The 19th Amendment was a key step for women's rights in the U.S.” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.