Hôm nay,  

“Chăn lái giao duyên”

24/01/202500:00:00(Xem: 2050)
giao duyen
WASHINGTON, DC: Những chiếc ghim Donald Trump được bày bán tại I Love DC Gifts trước Lễ nhậm chức. Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump và cựu Thượng nghị sĩ đắc cử Phó Tổng thống JD Vance (R-OH) tuyên thệ nhậm chức vào ngày 20 tháng 1. (Ảnh của Kayla Bartkowski/Getty Images)
 
Nếu chúng ta, trong thị trường giải trí, từng một thời ướt át “tân cổ giao duyên” thì bây giờ người Mỹ, trong “thị trường chính trị”, như là biến thể mới nhất của nền chính trị quốc gia, đang khô khốc với sát khí “chăn lái giao duyên”. Nước Mỹ của thế kỷ 21, xem ra, đang đối mặt với nguy cơ tụt lùi về thế kỷ 19 của chủ nghĩa tư bản hoang dã và chủ nghĩa thực dân. 
 
Nhưng “chăn lái” chỉ là cách nói cho thuận tai và thuận miệng vậy thôi, để chính xác thì phải “cao bồi – môi giới địa ốc” hay, Anh–Việt đề huề một chút, là “cowboydealer giao duyên”. Đó là sự lai tạo giữa mẫu người chẳng biết pháp luật là gì với hạng môi giới “lợi nhuận biện minh cho phương tiện” mà người đời, một lần va chạm, là một lần nghiến răng tự nhắc nhở mình phải dè sẻn lòng tin. 
 
Hình tượng người chăn bò cowboy có trở thành thần tượng của giới trẻ là do Hollywood thì cũng chính kỹ nghệ điện ảnh này, qua tuyệt tác cao bồi về chiều Unforgiven, đoạt bốn giải Oscar 1992, đã đập tan huyền thoại khi cho thấy người hùng cũng bệ rạc, cũng tham lam, cũng độc ác và tồi tệ. Còn giới dealer chưa bao giờ được nâng thành huyền thoại thì, từ đầu tới cuối, luôn bị cảnh giác, dè chừng: nếu cha ông chúng ta mỉa mai “Thật thà như thể lái trâu” thì người Mỹ cũng vậy với hình tượng “honest dealer”/ 
 
Nhưng bây giờ thì hai thứ, ở tầm vóc cao nhất, đang “giao duyên” với nhau. Một dealer nhà nghề, trong vai trò quyền lực nhất thế giới, đã dẫm lên những quy tắc đạo đức lẫn pháp luật khi ngang nhiên hù dọa các quốc gia khác như thể một tay cao bồi miền viễn Tây hù dọa những bồi bàn quán rượu. Như một tên “chăn”, y đòi sáp nhập Canada và y nhạo báng nhà lãnh đạo mà nhân dân đất nước này bầu lên như là hạng “thống đốc” dưới quyền mình. Như một tên “lái”, y đòi sở hữu kênh đào Panama, đòi mua lại Greenland. Chỉ mới là khúc dạo đầu khi chưa chính thức nắm quyền mà đã thế thì, sau này, chính sách ngoại giao của y còn cao bồi đến đâu? 
 
Nước Mỹ những năm qua, trừ cái giai đoạn kỳ quái mà mỗi thông báo quốc gia là một tin nhắn giật gân nhằm câu “like” trên mạng Twitter, vẫn chưa hẳn hoàn hảo nhưng ít ra vẫn đủ để nhiều người hay quốc gia hướng về, như chúng ta từng như thế khi liều chết băng biển tìm tự do, hay như Ukraine từng gởi gắm niềm tin khi bị Nga xâm lược. Và để được như thế thì nước Mỹ đã trải qua bao nhiêu bước tự hoàn thiện lấy mình. Hoàn thiện để bước qua thời kỳ “tư bản hoang dã” với những biện pháp tiết chế, từ đạo luật “Anti Trust” ngăn chặn độc quyền đến những biện pháp bảo vệ môi sinh, bảo vệ quyền lợi của nhân công. Hoàn thiện bằng cách bãi bỏ chế độ nô lệ, bãi bỏ sự kỳ thị với những xe bus, nhà hàng, trường học không cho người da đen thò chân v.v. Nhưng bây giờ thì đất nước này đang đối mặt với nguy cơ thụt lùi mà, để hiểu, cần phải nhìn lại những thứ mà đã từng rũ bỏ trên khía cạnh ngoại giao. 
 
Đầu tiên là Học thuyết Monroe, do James Monroe – Tổng thống thứ năm (1817- 1825) -- công bố trước Quốc Hội ngày 2/12/1823 với ba yếu tố chính: thứ nhất, chấm dứt việc mở mang thuộc địa của Âu Châu tại Châu Mỹ La-Tinh; thứ hai, chính trị Mỹ sẽ tách rời nghị trình Châu Âu; thứ ba, Âu Châu không có quyền can thiệp vào Châu Mỹ. Nói cho gọn thì “Mỹ Châu là của người Mỹ” nhưng bởi Mỹ vẫn chưa đạt đến tư thế vượt trội nên Monroe đành phải công nhận những thuộc điạ cũ của Âu Châu, chỉ đòi hỏi rằng tiến trình khai thác thuộc địa phải chấm dứt, những phần đất bỏ ngõ phải là của Mỹ.
 
Gần ba phần tư thế kỷ sau đó thì Venezuela lại bám vào học thuyết này khi tranh chấp với Anh. Đang nắm giữ thuộc địa Guiana, năm 1895 Anh tranh giành khu vực Essequibo có nhiều mỏ vàng với láng giềng Venezuela nên bị Venezuela la lối là xâm phạm học thuyết ngoại giao Mỹ. Diễn biến này đã thổi bùng “chủ nghĩa quốc gia” mang màu sắc đế quốc tại Mỹ, thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự để bảo đảm lợi ích của mình và, vậy là, từ thời Grover Cleveland – Tổng thống thứ 22 (1885-1889) và thứ 24 (1893-1897) -- ngân sách quân sự được gia tăng đáng kể, nhất là với hải quân. Đến thời Theodore Rooselvelt -- Tổng thống thứ 26 (1901-1909) – thì Mỹ đã xây dựng một hạm đội hùng mạnh và tỏ ra quyết đoán hơn, thậm chí, chỉ trong vòng mấy chục tiếng đồng hồ, có thể tạo nên một quốc gia mới.
 
Đó là Panama, vốn thuộc về lãnh thổ Colombia. Năm 1903 Mỹ đề nghị mua đứt khu vực có con kênh với giá 10 triệu đô la nhưng Colombia bác bỏ. Nổi cáu, ông Rooselvelt ra lệnh sách động phong trào ly khai tại Panama và chọn ông Manuel Amador, một chính khách địa phương. Ngày 17/10/1903, Amador cùng nhiều “nhà ly khai” khác đến Mỹ nhằm sắp đặt cuộc “cách mạng” chống lại “ách thống trị” Colombia và, chỉ một ngày sau, “hiến pháp”, “quốc kỳ” và “đại sứ” của Panama đã sẵn sàng trên đất Mỹ. Bunau-Varilla, một kỹ sư Pháp từng làm việc cho công ty kênh đào Panama, được bổ nhiệm làm Đại sứ Panama tại Mỹ và, do đó, trở thành vị đại sứ kỳ quái nhất trong lịch sử nhân loại: quốc gia ông ta đại diện vẫn chưa ra đời còn ông ta thì chưa bao giờ được phép thường trú tại phần đất này.
 
Hai tuần sau, 3/11/1903, bằng tài trợ Mỹ, phong trào ly khai Panama đã mua chuộc toàn bộ lực lượng an ninh địa phương rồi, chờ khi các chiến hạm Mỹ tiến vào cảng Colon, họ mới công bố “tuyên ngôn độc lập”. Ngày 6/11/1903 Mỹ tuyên bố công nhận tân quốc gia và ngay hôm sau, phái đoàn của tân chính phủ đã lên đường sang Mỹ nhằm thương thảo về thoả ước kênh đào. Tuy nhiên, khi phái đoàn đến Washington D.C bằng đường hoả xa vào lúc 11.30 ngày 18/11, hiệp ước đã được viên đại sứ ký trước đó mấy tiếng đồng hồ! 
 
Giai đoạn này Châu Mỹ La-Tinh rối lên với tình trạng vỡ nợ bởi nhiều quốc gia không gánh nổi những khoản vay lãi suất cao từ Âu Châu, dẫn đến tệ đưa tàu chiến đến đòi nợ. Lo sợ trước việc này, ông Luis M. Drago, Ngoại trưởng Argentina, vận động một điều ước quốc tế nhằm ngăn cản nhưng, do biết trước, ngày 3/12/1902 Tổng thống Rooselvelt tuyên bố Mỹ sẽ không can thiệp nếu những chủ nợ Âu Châu không có ý định ở lỳ. 
 
Nhưng Venezuela lại làm Mỹ thay đổi. Đầu tiên là việc nhà độc tài Cipriano Castro thách thức Âu Châu khi đơn phương xoá nợ hay chiếm hữu tài sản ngoại quốc và theo các sử gia thì Castro vẫn sợ tàu chiến Âu Châu nhưng ông ta cậy vào Học thuyết Monroe. Tuy nhiên, Rooselvelt đã bật đèn xanh nên những hạm đội Anh, Đức và Ý rầm rộ tiến vào hải phận Venezuela, thoải mái phong tỏa đường biển, đánh đắm hay tịch thu tàu bè, thậm chí nả pháo vào các thành phố, hải cảng. Cipriano vội vã cầu cứu Mỹ nhưng Mỹ lại lấy làm hài lòng khi Âu Châu vẫn tỏ ra dè dặt và tôn trọng Học thuyết Monroe. Venezuela bèn kiện ra toà án quốc tế và phán quyết Toà án Hague ngày 22/2/1904 công nhận việc dùng vũ lực đòi nợ nhưng diễn tiến này lại khiến Mỹ bất an bởi chiến Âu Châu có thể hiện diện hợp pháp ở sân sau của mình. 
 
Mỹ lập tức xét lại chính sách của mình và Học thuyết Monroe được cập nhật với cương lĩnh Roosevelt Corollary, do Tổng thống Rooselvelt công bố ngày 6/12/1904: thứ nhất, nghiêm cấm sự can thiệp của những chính quyền khác trong những vấn đề của Mỹ Châu La-Tinh; thứ hai, Mỹ nhận lãnh vai trò sen đầm khu vực để bảo đảm rằng những quốc gia này “hoàn thành nghĩa vụ quốc tế” của họ. 
 
Để hiểu rõ đường lối này thì hãy nhìn vào Dominican, một đảo quốc nhỏ bé trong vùng biển Caribbean: để khỏi nợ nần thì Dominican có “nghĩa vụ” phải chấp nhận một cố vấn kinh tế Mỹ trong vị trí cầm cân nẩy mực trong hệ thống tài chính của mình. Nhưng Mỹ còn muốn thay thế Âu Châu ở vị trí chủ nợ, như một mũi tên bắn vào hai đích: vừa gạt Âu Châu ra ngoài, vừa hợp pháp hoá quyền can thiệp bằng vũ lực theo án lệ của Tòa án Hague với tư cách chủ nợ. 
 
Khi William Howard Taft – Tổng thống thứ 27 (1909 – 1913) -- kế nhiệm Roosevelt, đường lối “Ngoại Giao Đô-la” do ngoại trưởng Philander Knox khởi xướng lại được ráo riết thi hành. Theo đường lối này thì ngân hàng Mỹ sẽ “tích cực” cho những quốc gia trong khu vực vay tiền và, đến lượt, chính phủ Mỹ sẽ “tích cực” bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng và công dân Mỹ khi cần thiết. Như thế, khi được yêu cầu, Mỹ sẽ lập tức tăng phái quân đội với nhiệm vụ “vãn hồi trật tự” để rồi sau đó tổ chức bầu cử nhằm thiết lập một chính quyền “ổn định”.
 
Điều này từng diễn ra tại Nicaragua. Xứ sở này có một vị trí chiến lược bởi tàu bè Mỹ ra vào kênh đào Panama đều phải băng ngang hải phận của Nicaragua, ở cả hai bên đại dương. Tuy nhiên nhà độc tài José Zeleya (1893-1910) chỉ trông dựa vào những ngân hàng Âu Châu và năm 1909, một nhóm quân nhân - khởi động nội chiến nhằm lật đổ Zaleya với sự ủng hộ của Mỹ. Nhưng một năm sau, khi họ ca khúc khải hoàn, Mỹ vẫn chưa chịu công nhận ngay bởi còn phải đợi ngày thay chủ nợ: nước này cần vay tiền Mỹ để trả nợ Âu Châu. Nhưng vẫn chưa xong. Mỹ sau đó còn ép Nicaragua phải chuyển giao quyền kiểm soát ngành quan thuế, là điều mà không một quốc gia tự trọng dễ dàng chấp nhận. Tháng 12/1911, khi Knox đơn phương công bố “Mỹ hoá” ngành quan thuế, bạo động đã bùng nổ nhưng Mỹ đã sẵn sàng với những chiến hạm trên biển và thủy quân lục chiến trên đất liền. 
 
Cả Woodrow Wilson -- Tổng thống thứ 28 (1913 -1921) -- cũng chỉ trích tính chất vô đạo đức ở chính sách ngoại giao này. Năm 1913, sau khi nhậm chức, Wilson đã nêu lên những bất công giữa Mỹ và những quốc gia phương Nam: những đặc quyền đặc ê hề của Mỹ dưới mỹ từ “nhân nhượng” nhưng nước Mỹ thì chưa bao giờ “nhân nhượng” ai cả. Mà Wilson cũng chỉ đả kích để… đả kích thôi bởi, càng đả kích bao nhiêu, ông ta càng củng cố vị trí và quyền lợi Mỹ tại khu vực bấy nhiêu.
 
Nước Mỹ của thế kỷ 19, như thế, đã hành xử như một gã cao bồi mà, nếm mùi nặng nhất, phải là láng giềng Mexico. Sau cuộc chiến 1846-1848 - vốn bùng nổ sau khi Mỹ sáp nhập vùng Texas vào năm 1845 -- Mexico buộc phải nhượng cho Mỹ gần một phần hai lãnh thổ tuy nhiên, qua những thước phim, hay những trang sách phiên lưu rặt giọng cao bồi, người Mexico bao giờ cũng xuất hiện như một thế lực xấu xa, đồi bại. Có bị chèn ép như thế thì ông Porfiario Diáz, Tổng thống Mexico từ năm 1877 đến 1911, mới than: “Khốn nạn thay cho tổ quốc của chúng ta. Thượng Đế thì xa quá mà nước Mỹ thì gần quá!” 
 
Bây giờ, với khúc dạo đầu của nhà “chăn lái giao duyên” với cái tên The Gulf of Mexico thôi, chừng như người Mexico đang sống lại cảm giác của cố Tổng thống Diáz. Thoạt đầu, khi những nhà lập quốc Mỹ chọn cái tên Hiệp chúng quốc Mỹ Châu - United States of America -- họ đã, vô tình hay cố ý, “cướp” luôn cái tên America của cả một châu lục. Bây giờ thì y đòi thay đổi lịch sử, xóa luôn cái tên đã hình thành hơn bốn trăm năm. Y, xét về nhân cách và nghề nghiệp, đúng là một tay “chăn lái” nhưng về phong cách chính trị thì lại là một thứ “tân cổ giao duyên”. “Tân” vì ông ta là của hôm nay, của bốn năm sắp tới. Còn “cổ” là thì muốn quay lại như xưa, từ khẩu hiệu vĩ đại như xưa MAGA, từ phong cách cao bồi viễn Tây chẳng xem pháp luật ra gì, từ phong cách tư bản hoang dã, cái trò làm giàu bằng cách bóc lột xã hội không thương tiếc và phá hoại môi trường không e dè, không vướng víu bất cứ sự kiểm soát nào. 
 
Nền chính trị quốc gia đang biến thành một “thị trường quyền lực” và chính quyền Mỹ đang chuyển mình thành một orligachy, cái bộ máy chính trị quả đầu với sự thao túng của một tội phạm ở trên cao và sự a tòng của đám đặc quyền ở dưới. Không chỉ là người Mỹ mà là tất cả, nếu yêu chuộng công lý và hòa bình, và nếu có khả năng phê phán, có ai mà không cảm thấy bất an? Bất an như những cư dân ở những thị trấn miền viễn Tây ngày nào khi phía chân trời xa cuộn lên những quầng bụi đỏ, báo hiệu một băng cao bồi đang rầm rập tiến vào và tôi, trong cái tâm trạng chung này, không thể không nghĩ đến mẫu văn chuyển tiếp trong tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa khi câu chuyện trở nên gay cấn: “Muốn biết sự việc thế nào, đón xem hồi sau sẽ rõ”. 
 
Quá nửa đời nhìn lại, ai cũng có thể nhận ra rằng thời gian sao mà nhanh quá, những vụng về, những điều trót dại hay lỡ lầm thời trẻ, dẫu đã ngót nghét nửa thế kỷ rồi, vậy mà cứ như là mới ngày hôm qua. Thế nhưng bây giờ, nếu nhìn về thẳng về phía trước để trông đợi cái “hồi sau sẽ rõ”của một nước Mỹ  ảm đạm như cảnh về chiều, chúng ta mới cảm nhận ngược lại rằng thời gian sao mà dài quá, dài đến “thăm thẳm chiều trôi”…

Nguyễn Hoàng Văn
 
Tài liệu tham khảo:
 
Dexter Perkin (1946) A History of the Monroe Doctrine, Boston: Little, Brown and Company.
George F. Kennar (1968) American Diplomacy, 1900-1950, New York: Mentor Book.
Robert D. Schulzinger (1984) American Diplomacy in the 20th Century, Oxford University Press.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.