Hôm nay,  

Chuyện Vãn Doris Day: Danh Vọng, Tình Yêu & Định Mệnh

08/11/202400:00:00(Xem: 719)

DorisDoris 2
 
“Chữ tài chữ mệnh khéo mà ghét nhau”
(Kiều – Nguyễn Du)
 
Nhắc đến danh ca, minh tinh Doris Day, khán thính giả trên thế giới liên tưởng đến ca khúc Que Sera, Sera ((Whatever Will Be, Will Be) trong phim The Man Who Knew Too Much đã gắn liền với tên tuổi của Doris Day. Phim The Man Who Knew Too Much của hãng Paramount do đạo diễn Alfred Hitchcock với tài tử James Stewart và minh tinh Doris Day. Ca khúc Que Sera, Sera với điệu Valse của Jay Livingston & Ray Evans do Doris Day trình bày với giọng ca mềm mại du dương, thành thót trong phim được nhận giải Oscar nhạc phim hay nhất năm 1956. Ca khúc nầy với lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy tựa đề Biết Ra Sao Ngày Sau rất phổ biến ở miền Nam Việt Nam.
 
Theo Hartman thì “Que sera sera” không bắt nguồn từ tiếng Tây Ban Nha, tiếng Italia, tiếng Pháp là câu tục ngữ tiếng Anh khi đề cập đến tương lai. Câu tiếng Anh của lời nói “Whatever is destined to happen will happen, do what you may to prevent it” hay câu tiếng Pháp là “Tout ce qui doit arriver arrivera, quels que soient vos efforts pour l’éviter” với ý nghĩa “Điều gì phải đến sẽ đến, dù cho bạn có cố làm gì để ngăn chặn nó” về định mệnh con người. “Que sera, sera. The future's not ours, to see. Que sera, sera…” rất quen thuộc của thời tuổi trẻ thời đó của chúng tôi trả lời trong hoàn cảnh chiến tranh.
 
*
 
Doris Mary Ann Kappelhoff sinh năm 1922 ở tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ trong gia đình bố mẹ là người Đức nhập cư. Bà có năng khiếu âm nhạc, nghệ thuật từ nhỏ, năm 1939 xuất hiện dòng nhạc Big Band (loại nhạc Jazz) mang tên Sentimental Journey với danh xưng Doris Day rồi trở nên nổi tiếng. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, năm 1945, bà trở thành giọng ca chính của nhóm Les Brown and His Band of Renown và nhanh chóng nổi tiếng qua nhiều ca khúc. Ngoài ra, nhóm có một số ca khúc khác đứng đầu bảng xếp hạng Billboard như: My Dreams Are Getting Better All the Time, Tain't Me, Till The End of Time, You Won't Be Satisfied (Until You Break My Heart), The Whole World is Singing My Song, I Got the Sun in the Mornin. Năm 1947, Doris Day rời nhóm để hát solo. Trong 20 năm, bà ra mắt hơn 600 tác phẩm, trong đó nổi tiếng với nhiều ca khúc được phổ biến khắp nơi trên thế giới.
 
Doris Day còn nổi tiếng cho những ca khúc trong phim và từ thập niên 1960 đóng phim, trở thành minh tinh điện ảnh. Doris Day có vẻ đẹp tự nhiên rực rỡ với tóc vàng, trong hình ảnh “Tóc vàng sợi nhỏ. Mong em chín đỏ trái sầu” (thơ Cung Trầm Tưởng).
 
Doris Day trở thành thần tượng của khán thính giả trong âm nhạc và điện ảnh trong suốt những thập niên, danh vọng tỏa sáng nhưng trải qua bốn cuộc tình cay nghiệt!
 
Doris Day kết hôn lần đầu năm 1941 với nghệ sĩ kèn trombone Al Jorden. Hai người gặp nhau khi cùng tham gia biểu diễn tại một chương trình ca nhạc ở thành phố Cincinnati, tiểu ban bang Ohio năm bà 16 tuổi. Khi kết hôn, bà chỉ mong cuộc sống yên bình bên chồng.
 
Sau những tháng ngày hạnh phúc, cặp vợ chồng thường xuyên cãi vã vì ghen tuông. Bà từng chia sẻ thường xuyên bị chồng cũ đánh đập. Al Jorden thường bỏ Doris ở nhà và dẫn theo người tình trong những chuyến lưu diễn. Cuộc hôn nhân diễn ra gần hai năm. Hai người ly dị vào tháng 3/1943 khi bà mới 21 tuổi.
 
Doris Day có với Al Jorden một con trai, cũng là con duy nhất của bà - Terry Melcher (sinh năm 1942). Al Jorden từng có ý định giết Doris vì không chịu phá thai. Bà không thể nào ngờ sự nhẫn tâm của người chồng độc ác như vây! Năm 2004, Terry qua đời sau nhiều năm chống chọi các căn bệnh tuổi già. Khi còn sống, Terry là ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc thành công. Đây là vết thương lòng đau nhất trong cuộc đời bà ở tuổi già 80.
Năm 1946, Doris Day kết hôn lần hai với George Weidler, nhạc công kèn saxophone. Bà bước vào điện ảnh trong giai đoạn này. Doris tham gia bộ phim đầu tiên, Romance on the High Seas, năm 1948.
 
Bà đề nghị chồng cùng đến Los Angeles sống để phát triển công việc. Tuy nhiên, George ghen tuông, không hứng thú với sự nghiệp của vợ. Hai người mâu thuẫn và ly thân. Bà chuyển đến New York và theo đuổi diễn xuất. George đổ lỗi cho Doris Day bỏ bê gia đình và đòi ly dị vào năm 1949. Sau đó, bà trở thành diễn viên nổi tiếng tại Hollywood. Bà được công chúng đón nhận với những bộ phim như My Dream Is Yours (năm 1949), Love Me or Leave Me (năm 1955).
 
Năm 1951, Doris kết hôn lần thứ ba đúng sinh nhật tuổi 29. Chồng mới của bà là Martin Melcher, nhà sản xuất phim nổi tiếng. Ông hỗ trợ nhiều bộ phim thành công của Doris Day trong giai đoạn này. Martin cũng là người nuôi dưỡng và hướng Terry Melcher trở thành ca sĩ vì vậy bà cả tin tấm lòng của người chồng.
 
Thế nhưng, sống cùng nhau tới khi Martin qua đời vào năm 1968. Đây cũng là cuộc hôn nhân dài nhất của Doris. Tuy nhiên, sau khi Martin mất, bà phát hiện chồng và đồng nghiệp đã mưu toan chiếm đoạt các khoản tiền cát-xê của bà trong suốt 17 năm chung sống. Lúc Martin còn sống, ông đầu tư làm ăn thất bại nhưng không cho vợ hay biết, ông cũng không nộp thuế thu nhập dù là nhà quản lý chính thức, do vậy Doris Day vào năm 45 tuổi lại lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Bà buộc phải đóng phim truyền hình nhiều tập The Doris Day Show từ năm 1968 đến năm 1973, cho dù bà chưa bao giờ ký hợp đồng với các đài truyền hình, rốt cuộc bao nhiêu tiền thù lao cũng chỉ để trả nợ. Doris Day rơi vào tình cảnh nợ nần và gần như phá sản. (Năm 1979, bà mới nhận lại được khoản tiền sau khi thắng kiện).
 
Sau thời kỳ khó khăn này, Doris Day quyết định giải nghệ. Bà lui về sống ẩn dật tại thị trấn Carmel by the Sea, tiểu bang California, nơi đây có bãi biển Carmel Sunset đẹp tuyệt vời. Vào năm 1975, Doris Day phát hành quyển hồi ký “Doris Day: Her Own Story” cho thấy sự nghiệp và cuộc đời của bà không phải là một dòng sông phẳng lặng êm ả như người ta thường nói.
 
Cuốn tự truyện viết rất thật, ghi lại quãng đời Doris Day từ thời thơ ấu với những khó khăn phải trải qua trong gia đình và những đam mê âm nhạc từ nhỏ. Sự nghiệp điện ảnh khi bước vào lãnh vực nầy có lúc gập ghềnh, có khi may mắn với những đồng nghiệp và đạo diễn nổi tiếng mang đến danh vọng trong nghệ thuật thứ bảy. Trong cuộc sống cá nhân không suông sẻ trong tình trường với ba cuộc hôn nhân và những mất mát trong cuộc đời. Và cuối cùng tình yêu động vật.
 
Năm 1973, Doris Day giải nghệ thời gian và dành thời giờ cho công tác bảo vệ động vật thông qua việc thành lập tổ chức phi chính phủ mang tên Doris Day Animal Foundation. Bà thành lập Quỹ Động vật mang tên mình, một tổ chức phi lợi nhuận nhằm mục đích giúp đỡ động vật trên khắp nước Mỹ.
 
Năm 1976, Doris Day kết hôn với Barry Comden. Hai người quen nhau vì thường tới nhà hàng do Barry làm quản lý. Cuộc hôn nhân kéo dài trong sáu năm. Hai người ly dị tháng 4/1982. Barry chia sẻ lý do chia tay là Doris chỉ quan tâm chăm sóc lũ thú cưng thay vì lo lắng cho chồng. (Có giai thoại cho rằng khi bà ngán ngẫm tình đời, bà nuôi thú cưng trong nhà, có lần con chó cưng chết, bà cắt đứt mọi liên lạc trong 3 tháng vì thương xót).
Sau khi ly dị với 4 đời chồng Al Jorden (1941-1943), George Weidler (1946-1949), Martin Melcher (1951-1968), Barry Comden (1976-1981). Doris Day tiếp tục sự nghiệp âm nhạc. Tuy ở tuổi 60 còn trẻ đẹp nhưng bà ngán ngẫm với hôn nhân, sống trong khu đất rộng khoảng 10 mẫu, thỉnh thoảng bước đi trên phố với hàng đàn chó, mèo lạc vây quanh. Trang phục giản dị khác hẳn hình ảnh huyền thoại màn bạc và trên sân khấu.
 
Minh tinh Pháp Brigitte Bardot và Doris Day là hai hình ảnh tiêu biểu cho quyền bảo vệ động vật. Năm 1986, Brigitte Bardot thành lập Quỹ Brigitte Bardot nhằm chăm sóc và bảo vệ động vật. BB đã lên án những nước Á Châu còn “man rợ” ăn thú cưng trong nhà như chó, mèo… Ở Mỹ, hành hạ thú cưng trong nhà cũng bị phạm luật đừng nói gí đến giết hại, làm thịt.
 
Vào tuổi 90, Doris Day nhận được vinh dự trở lại vào năm 2011, khi tuyển tập chọn lọc của bà My Heart được lọt vào Top Ten thị trường Anh quốc, đĩa hát này chọn lọc những bài hát từng được Doris Day ghi âm vào những năm 1980. Album My Heart gồm 13 ca khúc: Hurry, It's Lovely Up Here, Daydream, The Way I Dreamed It, Heaven Tonight, My One and Only Love, My Heart, You Are So Beautiful, Life Is Just a Bowl of Cherries, Disney Girls, Stewball, My Buddy, Happy Endings, Ohio.
 
Tối ngày 13/5/2019, Doris Day qua đời ở tuổi 97 tại Carmel Valley, California. Bà siêng tập thể dục nên sức khỏe tốt cho đến khi bị viêm phổi trầm trọng.
 
Doris Day khởi đầu sự nghiệp điện ảnh trong vai diễn đầu tiên của phim Romance on the High Seas và những thập niên tiếp theo khoảng 30 phim.
 
My Dream Is Yours (1949) phim âm nhạc, trong đó Doris Day thủ vai một ca sĩ đang tìm cách khởi nghiệp. Tea for Two" (1950), On Moonlight Bay (1951), By the Light of the Silvery Moon (1953), April in Paris (1952). Phim âm nhạc Calamity Jane (1953) với ca khúc Secret Love trong phim đã giành giải Oscar. Love Me or Leave Me (1955), The Man Who Knew Too Much (1956) vừa diễn viên và ca sĩ trở thành “biểu tượng” gắn liền với bà. Pillow Talk (1959), Please Don't Eat the Daisie (1960), Lover Come Back (1961), The Thrill of It All (1963), Send Me No Flowers (1964), That Touch of Mink (1962), Do Not Disturb (1965), Caprice" (1967), The Ballad of Josie (1967), With Six You Get Eggroll (1968) phim cuối cùng của Doris Day trước khi giải nghệ… Trong đó, một số cuốn phim nầy với tiếng hát của diễn viên kiêm ca sĩ Doris Day.
 
Nguồn thu nhập về điện ảnh không bằng âm nhạc, Doris Day cùng hát với nam danh ca Frank Sinatra, người có thu nhập cao nhất cao nhất trong những thập niên đó.
 
Vào giữa thập niên 1950’ và 1970’ Sài Gòn nhập phim ngoại quốc nhập từ Pháp. Vì vậy phim Mỹ lại nói tiếng Pháp, đôi khi nói tiếng Anh và có phụ đề (sous-titre) Việt ngữ, tờ flyer giới thiệu các diễn viên và tóm lược nội dung… để khán giả có thể theo dõi. Trong những cuốn phim đề cập trên có vài phim được trình chiếu và những ca khúc do Doris Day hát cũng được phổ biến nên tên tuổi bà rất quen thuộc.
 
Viết về Doris Day trong mục Chuyện Vãn của tôi vì không thuần túy về văn học nghệ thuật mà đề cập đến nhân vật tài danh trên đỉnh cao danh vọng được mọi người ái mộ nhưng định mệnh lại khắc khe “Chữ tài liền với chữ tai một vần”“Đã mang lấy nghiệp vào thân. Thì đừng trách lẫn trời gần đất xa” như lời thơ thi hào Nguyễn Du. Đó là lẽ thường tình của cuộc đời trên thế gian. Với thuyết tài mênh tương đố không chừa bất cứ ai, ngay cả Doris Day, danh vọng, tình yêu & định mệnh với nỗi đau qua 4 cuộc tình, không thể nào ngờ.
 
Trong đỉnh cao danh vọng cả danh và lợi nhưng không mang lại hạnh phúc trong tình yêu!
 
Que Sera Sera
“... When I was just a little girl
I asked my mother, what will I be
Will I be pretty, will I be rich
Here's what she said to me
Que sera, sera, whatever will be, will be...”.
“Nào ai biết ngày sau, đời ta sẽ về đâu...”
 
Khi Doris Day qua đời, tất cả tài sản của bà hiến cho quỹ từ thiện The Doris Day Animal Foundation (DDAF), thể hiện tình yêu thương của bà với động vật.
 
Little Saigon, October 2024
Vương Trùng Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Những nhân vật nổi tiếng có quyền thế thường đặt ra các tiêu chuẩn ứng xử cho những người ngưỡng mộ va kính trọng họ. Điều này có khả năng gây ra sự tiêu cực, nhưng đôi khi, các nhà lãnh đạo của chúng ta đã hành xử rất đáng kính. Vào ngày 13/5/1981, Giáo hoàng John PauI đã bị Mehmet Ali Ağca bắn bốn phát khi ông đi qua Quảng trường Thánh Peter ở Thành phố Vatican. Hai viên đạn bắn trúng bụng Giáo hoàng, một viên trúng cánh tay phải và một viên trúng ngón trỏ trái. Trong cơn đau dữ dội, Giáo hoàng đã được đội an ninh đưa đi, và mặc dù mất rất nhiều máu, Giáo hoàng vẫn vuợt qua được
Tôi đã có bài viết về nhạc chế, nay lại nhạc nhái, có trùng lắp không? Nhạc chế, theo từ điện mở Wikipedia, tiếng Anh là parody music hay musical parody, là việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ lời bài hát so với bản gốc (thường là nổi tiếng), hoặc sao chép phong cách đặc biệt của một nhà soạn nhạc hoặc nghệ sĩ hoặc thậm chí là một phong cách âm nhạc chung. Nhạc chế tồn tại trong đời sống xã hội như một dạng văn nghệ dân gian, cũng tương tự như chuyện tiếu lâm, chủ yếu là truyền khẩu, giúp mọi người giải trí vui vẻ trong phạm vi từng cộng đồng nhỏ hẹp. Những ca khúc chế lời trên thực tế rất có sức hút đối với người nghe, nhất là khi nội dung lời ca có tình hài hước, gắn với một sự kiện nào đó mà dư luận đang rất quan tâm.
Suốt cả tuần lễ của đầu tháng 10 vừa qua, trên trang nhất của tất cả những tờ báo quốc doanh đều xuất hiện một dòng chữ đỏ rất to, và rất đậm: CHÀO MỪNG 70 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ! Vietnamnet hớn hở chạy tin: “Đi bất kỳ đâu trên phố trung tâm Hà Nội những ngày này, người dân đều có thể thấy hình ảnh mang ý nghĩa lịch sử về ngày giải phóng Thủ đô cách đây tròn 70 năm trên các pano, áp phích cùng cờ hoa được trang trí rực rỡ… Khoảng 10.000 người có màn tập duyệt cuối cùng các phần diễu hành, trình diễn cho ‘Ngày hội Văn hóa vì hòa bình’ kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024)”.
Khi chưa bị bắt, và bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần – có lần – Nguyễn Thúy Hạnh kể lại một câu chuyện hơi tếu táo (“Chuyện Một Người Bất Đồng Chính Kiến”) nhưng nghe rồi tôi lại thoáng buồn buồn: Bác tên là Nguyễn Thế Đàm, người từng hai lần bị tống vào hoả lò cũ và hoả lò mới, rồi hai lần bị đẩy vào trại tâm thần, Trâu Quỳ và Thường Tín. “Tôi khẳng định ông ấy bị điên. Cả thế giới người ta thấy mà lặng im ko nói, chỉ một mình ông ấy nói ra, thế chả là điên thì là gì?”Giám đốc bệnh viện tâm thần thời đó đã nói vậy khi vợ bác khăng khăng chồng mình ko bị điên. Vậy bác Đàm “nói” cái gì? Đó là những truyền đơn nhằm vào ông Hồ, mục đích để ông Hồ ko còn là thánh, trong đó thường gọi ông Hồ là “ngu Hồ”, và rằng chủ nghĩa Mác là phản động… Thời những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mà đi rải truyền đơn hạ bệ lãnh tụ, lại còn viết đủ cả tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của mình vào truyền đơn rồi đi phát tận tay từng người thì quả đúng là vuốt râu hùm.
Từ Montreal Canada đến Detroit mất hai tiếng rưỡi, rồi từ Detroit bang Michigan Hoa Kỳ đến Nhật Bản khoảng 13 tiếng rưỡi, dù máy bay có rộng rãi cách mấy, tiện nghi bao nhiêu đi nữa cũng làm tôi không sao chợp mắt được; trên máy bay chúng tôi được phục vụ một bữa chính gồm khoai tây nghiền với gà hầm cà chua thơm ngon, một salad, một thanh cheese, một desert, một chai rượu đỏ hoặc trắng tùy khách chọn, vừa ăn uống vừa coi hết film này đến film khác; khoảng 3,4 tiếng sau lại cho ăn tiếp lót dạ một pizza với sauce cà chua cá hồi, đồ uống nước cam, coke hay trà thì được phục vụ liên tục. Sau bữa ăn mọi người ai nấy dập dìu viếng thăm căn phòng nhỏ cuối máy bay, xếp hàng dài chờ phiên mình; mục này cũng làm cho mọi người đứng lên di chuyển, vươn vai, duỗi chân cho đỡ mệt mỏi.
Lúc sau này tôi bỗng thích nghịch ngợm chút đỉnh. Nghịch ngợm là cái thú của thời con nít với những côn trùng thân yêu như dế mèn, chuồn chuồn, đom đóm, ve sầu, chim sáo, chào mào. Sau khi phổ biến ba bài Ve Sầu, Chuồn Chuồn và Đom Đóm, các ông bạn già của tôi coi bộ phấn khích như sống lại tuổi thơ. Một ông hỏi tôi đã viết về bươm bướm chưa? Tôi ngẩn người nhớ lại và cho ông bạn biết là bướm không biết bay thì viết rồi, bướm bay thì chưa. Ông này vốn chân chỉ hạt bột, chỉ thích bướm bay, để ông nhớ tới thời đã mất.
**01/10 -- Bùi Diễm (01/10/1923– 24/10/2021) là một chính khách Việt Nam. Ông nắm giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ từ năm 1967 đến năm 1972. --1908 - Mẫu xe T của Henry Ford, một "chiếc xe phổ thông" được thiết kế cho đại chúng, được bán lần đầu tiên. -- 1938 - Quân đội của Hitler chiếm đóng phần Sudetenland của Tiệp Khắc. Trong nỗ lực tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp đã đồng ý nhượng khu vực nói tiếng Đức cho Hitler, người sau đó đã phá vỡ thỏa thuận và chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc.
Hãy thử nhớ lại lần gần đây nhất quý vị viết ghi chú, một ghi chú ngắn hoặc danh sách mua sắm chẳng hạn. Có thể quý vị đã không dùng tới giấy và viết. Hơn mười năm qua, bàn phím và màn hình đã lặng lẽ thay thế chữ viết tay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, từ trường, lớp cho đến các cuộc họp hành. Thậm chí, một số trường học trên thế giới đã ngừng hoàn toàn việc rèn chữ viết (cursive).
Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.