Hôm nay,  

Trịnh Y Thư: Những Mối Tình Trong “Đường Về Thủy Phủ”

27/09/202400:00:00(Xem: 485)
 
TYT_DVTP_PreOrder
 
Hiếm có một tiểu thuyết như Đường về thủy phủ của Trịnh Y Thư. Không phải là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhưng lại làm người đọc phải bâng khuâng nghĩ về những chặng đường đã trải qua của dân tộc. Không phải là một tiểu thuyết diễm tình, nhưng lòng độc giả sẽ chùng xuống khi khép trang sách lại và ngậm ngùi cho những mối tình tan vỡ. Bạn có thể đọc xong, tuần sau đọc lại, vẫn còn thấy có những gì như cần đọc nữa. Chữ của Trịnh Y Thư như dường không cũ tí nào, vì nó luôn luôn gợi tới những gì sâu thẳm trong tim mỗi người, những ước mơ về một mối tình rất mực kỳ ngộ, rất mực dị thường.
   
Tôi do dự khi nghĩ tới cách viết cảm nghĩ về tác phẩm này. Đã có vài người viết về Đường về thủy phủ. Như Bùi Vĩnh Phúc khi viết Tựa, như Nguyễn Thị Khánh Minh khi viết Bạt. Hay những cảm nghĩ sau khi đọc, từ Đỗ Anh Hoa, từ Nina Hòa Bình Lê. Làm sao tôi có thể chép những cảm xúc rối bời của mình xuống giấy, sau khi đọc tiểu thuyết của Trịnh Y Thư. Như dường rất là khó.
   
Tôi đã đọc Trịnh Y Thư từ nhiều thập niên. Đọc cả trong văn chương, và đọc cả trong hành xử đời thường. Bản thân tôi thiệt sự là một nhà báo, quen nhìn đời qua đôi mắt của một nhà báo (cho dù đôi khi tôi làm thơ, hay viết truyện), nên rất mực thán phục những người có thể viết được văn học thật sự – cần ghi chú rằng tôi không muốn nói là những người viết ra chữ, chỉ muốn nói là những người viết ra được cái đẹp của ngôn ngữ, cái đẹp của dòng sống sinh động chung quanh mình. Nghề báo của tôi chỉ là mô tả sự kiện, thường là chuyện bất trắc, chuyện xui xẻo, mới thành tin (thí dụ, đụng xe, cháy nhà…) Trong khi đó, những nhà văn thực sự như Trịnh Y Thư luôn luôn biết cách chỉ ra cái đẹp của ngôn ngữ và cái đẹp trong đời sống bình thường, bất kể là khi không có chuyện đụng xe và cũng không có chuyện cháy nhà.
   
Tôi đã từng nghĩ, rằng cái giá trị của văn học là khi nhà văn mô tả một cô gái không đẹp, dòng văn vẫn có một sức mạnh lôi cuốn, hấp dẫn. Bởi vì nhân vật nữ trong đa số (có thể không hẳn đa số, nhưng là rất nhiều) truyện đều là những người đẹp, có thể làm say đắm lòng người khi nhìn tới hay nghĩ về. Trường hợp một nhân vật nữ không đẹp, đã được Trịnh Y Thư mô tả bằng ngôn ngữ rất đẹp, mới là siêu xuất. Tôi muốn nói về nhân vật xưng tôi trong Đường về thủy phủ, khi còn là một cậu bé ở Hà Nội, đã cùng vài bạn nhỏ rình xem một chị trong làng tắm truồng, và hình ảnh thân thể của chị này in vào trí nhớ “tôi” suốt đời. Mà hình ảnh đó không thơ mộng, không gợi dục, chủ yếu chỉ nghịch ngợm. Tôi ưa thích cách sử dụng các tĩnh từ (mà bình thường thì tôi sợ tĩnh từ, vì nó làm rối đầu mình) của Trịnh Y Thư.
   
Nơi trang 37-38, tác giả Trịnh Y Thư kể về những hình ảnh không thơ mộng trong đầu cậu một một lần theo các bạn ngó một chị trong làng tắm truồng, và khi chị này biết thì chị chạy “tất tả” vào nhà:
   
“…Chỉ được cái nước da trắng lốp. Khuôn mặt cô bầu bĩnh, mắt lá răm, hai môi dầy, người thấp lùn, nhưng đôi mông thì to lắm. Điều này tôi biết chắc, bởi lúc ôm đống quần áo tất tả chạy vào nhà, cô quên rằng nguyên phía sau cô lõa lồ, không một tí vải che từ đầu đến chân, và trước khi tụt xuống gốc cây bàng tôi đủ thời gian dán mắt vào đôi mông ấy. Núng nính. Nủng nỉnh. Như hai túi bột ai túm lại rồi lắc lắc. Đôi mông vẫn theo tôi ám ảnh mãi đến tận cuối đời, bây giờ.”
   
Tội nghiệp cô gái, khuôn mặt bầu bĩnh thì không đẹp, mắt lá răm cũng không đẹp, môi dầy dĩ nhiên là không đẹp, thấp lùn hiển nhiên là bất lợi, “đôi mông thì to lắm” dĩ nhiên là hình ảnh thường trực xuất hiện trong phim hài. Nhưng cậu bé nhân vật “tôi” đó thì “dán mắt vào đôi mông ấy. Núng nính. Nủng nỉnh. Như hai túi bột ai túm lại rồi lắc lắc. Đôi mông vẫn theo tôi ám ảnh mãi đến tận cuối đời, bây giờ.” Một thiếu nữ không đẹp, được mô tả bằng nhiều tĩnh từ bất lợi, vậy mà đôi mông đó đã ịn vào đầu cậu bé tới tận cuối đời. Cái hay của văn học là thế. Đọc xong đoạn văn đó, độc giả khó thể nào quên hình ảnh đôi mông như túi bột. Trời ạ, lại thêm hai chữ “núng nính” lặp đi lặp lại. Cái hay của ngôn ngữ là như thế, làm cho dòng nhữ như dường núng nính theo đôi mông trong truyện.
   
Nhìn theo giá trị báo chí, kiểu văn trên chỉ là một dòng (hay hai dòng) rất khô khan. Thí dụ, tôi sẽ viết là, “Khi thiếu nữ tắm truồng, nhận ra mình đang bị bọn nhóc rình ngó, liền chạy vào nhà.” Cũng như khi kể chuyện đụng xe, thì nói là ai chết, ai bị thương, thế thôi. Tôi đã từng ưa thích văn phong kiểu Hemingway, ngắn gọn, tránh tĩnh từ, về chi tiết thì tối thiểu, chỉ nhằm cho độc giả tự nghĩ ra. Tuy nhiên đọc đoạn văn Trịnh Y Thư vừa dẫn, mới thấy ở chiều ngược lại, chính những trạng từ, những tĩnh từ mới làm cho trang giấy xao xuyến, và rồi đôi mông của thiếu nữ trong làng cứ “núng nính” mãi “hai túi bột” trong đầu cậu bé tới suốt đời.
   
Tiểu thuyết này của Trịnh Y Thư dễ dàng bị “đấu tố”, bởi vì anh nhìn vào sự thật ở lòng người trong những dòng chảy lịch sử, và nói lên một số sự thật. Kiểu như lời quy chụp nhiều thập niên trước, đó là “tư tưởng tiểu tư sản” rất là ưa ngờ vực và ưa nói thẳng về những góc tối trong lòng người. Như khi mô tả về Toại, một chàng trai say mê chủ nghĩa Marx trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Trịnh Y Thư viết:
   
Càng nghĩ tôi càng thấy anh là người tài giỏi và có lý tưởng. Lúc đó tôi không hề biết con đường từ lý tưởng đến cuồng tín chỉ là một khoảng cách rất ngắn, ngắn lắm, chỉ vài milli-mét thôi, và chỉ cần một lực tác động nhẹ vài milli-gam là đủ cho một con người ôm ấp lý tưởng trở thành kẻ sát nhân, sẵn sàng chém giết đồng loại để thực hiện lý tưởng của mình.” (Đường về thủy phủ, trang 69).
   
Nhận định đó vẫn đúng cho tới nhiều thập niên sau, như chúng ta đã thấy trong Huế những ngày Tết Mậu Thân 1968 và nhiều nơi khác trên quê nhà. Nhưng cần nói rõ rằng, tiểu thuyết này không can dự chi tới chính trị, không can dự chi tới cuộc nội chiến (dù là có nhiều trang kể chuyện thời kỳ sau năm 1975, chuyện về người đi cải tạo, về một phụ nữ với lòng tự trọng đã có lúc phải đi bán thân xác, hay chuyện một bác sĩ quân y Bắc quân về lại quê miền Bắc với phần thân thể “đàn ông” đã bị trúng đạn và không xài được nữa). Không, sách này là văn học, không có ý lý luận chính trị. Trịnh Y Thư chỉ muốn kể truyện, những gì anh nghe nơi này, nơi kia, những gì vui và buồn, và anh ghép lại thành một bức tranh toàn cảnh. Cuộc đời nó thế là thế, tác giả không muốn lèo lái cuộc đời phải thế này hay thế kia. Bởi vì, chính các nhân vật xưng “tôi” trong truyện, dù có khi là nam, có khi là nữ, có khi là cậu bé, có khi đã trưởng thành, có khi là cô nữ sinh viên gốc Việt tại Hoa Kỳ tự thấy mình chỉ là ảo và tự thấy như là nhân vật trong truyện của cuốn tiểu thuyết của vị giảng viên đại học…
   
Cái đẹp của tiểu thuyết này là cái như ảo, như thật. Mọi chuyện như hiển lộ trong mơ, nơi đó tất cả chúng ta đã khóc rất nhiều, vì những khổ nạn của trần gian, và cũng hạnh phúc rất nhiều trong những bất ngờ thoáng qua của thời gian. Trịnh Y Thư trong Lời Ngỏ đã ghi rằng anh không hề có ý viết tiểu thuyết chiến tranh hay lịch sử, và cũng không đưa ra luận đề nào hết (dĩ nhiên, bạn đọc có thể thấy khác, cũng như một viên ngọc đa sắc, đừng bắt phải chỉ hiện lên một màu).
   
Tất nhiên là có nhiều hư cấu. Nhân vật xưng “tôi” khi còn thiếu niên, trên đường chạy lên Yên Bái để vào vùng chiến khu Việt Minh, khi vào quán phở Thăng Long ở thị trấn Vân Đình, đã gặp các văn nghệ sĩ, như họa sĩ Tạ Tỵ, nhà thơ Đinh Hùng, các nhạc sĩ Văn Cao, Phạm Duy…  Tất nhiên là vui, khi nghe các đỉnh núi văn học nói chuyện xưng mày tao với nhau.
   
Một điều có thể thấy rằng Đường về thủy phủ (ba tập in thành một cuốn) là một tiểu thuyết chỉ ra được cái lãng mạn trong đời sống thường ngày. Như hình ảnh chàng nhà văn không mưu sinh nổi bằng nghề văn, nên phải sống bằng nghề dạy học. Hay cô nữ sinh viên tự nhận cô là nhân vật nữ bước ra từ tiểu thuyết của chàng. Nơi đó, có những đoạn văn ghi chuyện làm việc cực nhọc của nghề nông, mà không thấy cái nặng nhọc, ghi chuyện đứng giã gạo (lẽ ra là mệt kinh khủng) vậy mà nhân vật xưng tôi lại nhận ra “thân thể nhựa sống căng tràn” của cô thôn nữ đứng bên, và “các cô thôn nữ này toát ra một mùi vị lạ lùng” (tôi kinh hoàng thắc mắc, mùi là ngửi bằng mũi, còn vị là nếm bằng lưỡi, không rõ tác giả Trịnh Y Thư muốn nói là nếm chỗ nào). Mà lại lưu mãi trong ký ức nhân vật xưng tôi suốt đời.
   
Trịnh Y Thư viết rất thơ mộng trần gian về ngôi làng kháng chiến đó như sau: “Tôi thích giã gạo vì vừa vận động cơ thể vừa được dịp tán chuyện gẫu với một cô thôn nữ thân thể nhựa sống căng tràn và tiếng cười giòn giã, đứng sát vào nhau nhịp nhàng nện chiếc chày bằng thanh gỗ to tướng treo trên xà ngang giã thình thịch xuống cái cối đá đường kính cả thước chôn dưới đất. Thân thể các cô thôn nữ này toát ra một mùi vị lạ lùng, khó diễn tả bằng lời. Nó  ngai ngái như mùi hoa dại, mà nồng ấm ngọt ngào chứ không chua.  Cái  mùi ấy  quyện  lấy tôi trong lúc giã gạo và lưu lại mãi trong khứu giác tôi.” (trang 88-89).
   
Nhân vật xưng tôi khi 19 tuổi làm dân quân du kích, chưa được dự trận đánh nào với quân Pháp. Nhưng chàng có niềm vui riêng: mối tình với cô gái H’Mông tên là Xụ Phụn Phèn (trời ạ, tên khó nhớ quá, viết lại dễ sai chính tả). Nàng mới 15 tuổi. Chính trong thời kỳ tham gia kháng chiến và trong khi lòng chàng thơ mộng dịu dàng với hình ảnh của nàng Xụ Phụn Phèn, nhân vật xưng tôi nhìn thấy những hình ảnh hãi hùng của cuộc kháng chiến. Như khi kể về đơn vị quyết tử của Việt Minh có nhiệm vụ ôm bom ba càng chạy vào cho nổ xe tăng hay lô cốt quân Pháp, và họ cũng nổ tan xác theo, để mở đường cho đơn vị khác đánh đồn. Trong đêm trước khi họ hy sinh, khuôn mặt họ lạnh lẽo, bất kể là văn nghệ sân khấu tưng bừng tới đâu. Nhưng đêm đó, trước khi hy sinh, lính cảm tử được một ưu đãi cuối đời.
   
Trịnh Y Thư viết, rất buồn: “Mãi khuya mọi người mới lục tục đứng dậy ra khỏi ngôi nhà, chui vào lán đi ngủ. Tôi thấy một nhóm phụ nữ ăn mặc như dân quân đến nắm tay các anh cảm tử quân. Mỗi chị nắm tay một anh. Từng cặp, họ chui vào những gian buồng quây bằng nan trông như bồ lúa sát vách sau ngôi nhà. Và tôi hiểu.” (Trang 101).
   
Nhân vật xưng tôi, tên là Minh, cũng là tên khai sanh của tác giả Trịnh Y Thư, có vẻ như may mắn trong tình trường. Bởi vì, như dường các cô tới với anh ở vị trí chủ động trước.
   
Như mối tình với cô H’Mông 15 tuổi, thì: “Cô hẹn tôi ở một nơi khác, mãi tận khúc suối trên nguồn cách xa cả cây số, vắng vẻ…” (Trang 107).
   
Xin đọc kỹ, “cô hẹn tôi” chứ không phải “tôi hẹn cô” và nơi ấy thì “Tại đây có một cái lán xiêu vẹo  bỏ  không, tôi sửa sang, dọn dẹp thành căn lều lý tưởng cho hai chúng tôi yêu nhau.” (Trang 107).
   
Than ôi, “yêu” là những cảm xúc trong lòng người, nhưng nơi đây tác giả lại biến thành một chuyển động của thân xác. Chữ Việt hay không ngờ.
   
Tác giả mô tả kỹ lưỡng hơn, cũng là nàng chủ động, nàng nhìn chàng âu yếm rồi nàng cởi áo, rồi, “Cô cảm động nhìn tôi âu yếm rồi cởi áo, cầm tay tôi đặt lên ngực mình. Vú cô bé lắm, chỉ nhỉnh hơn quả cau một chút, nhưng đầu vú to, màu hồng. Tôi thích nghịch vú cô. Cô biết thế. Tôi đưa môi hôn cô, tay mân mê đầu vú xinh xắn, ngọt ngào.” (Trang 107).
   
Cuối cùng, cô Xụ Phụn Phèn chết, trong khi cô có thai vài tháng với nhân vật xưng tôi. Cô và cả bản làng của cô, có lẽ cả trăm người, bị ông Lê Lân, Tiểu đoàn trưởng Việt Minh, xử bắn toàn bộ vì người dân H’Mông cũng hiếu khách với cả lính Pháp, cho nên bị nghi là giúp đỡ người Pháp.
   
Đoạn cuối của Phần I, viết như một cuộc nói chuyện trong mơ của nàng Xụ Phụn Phèn với đứa con trong bụng, nơi đó, cô hứa với đứa con là sẽ đưa con về thủy phủ để gặp bố: “Đúng vậy, con ạ. Họ cùng về thủy phủ với mình, nơi không còn bom đạn hay hận thù, nơi mẹ con mình sẽ gặp bố, bố sẽ yêu thương bảo bọc mẹ con mình. Thôi con nhé, con hãy ngủ đi, khi nào mặt trời mọc là mình đến nơi.
   
Truyện rất là buồn. Tới Phần II, những nỗi buồn cũng rất đậm trong bối cảnh khác. Phần II còn gọi là “Dưới những gốc nho biển”.
   
Một điều dễ nhận trong văn của Trịnh Y Thư là chất thơ mộng. Và truyện tình. Luôn luôn là phải có một mối tình giữa chàng và nàng trong một ngang trái nào đó. Chúng ta không nên hiểu chữ ngang trái như kiểu truyền thống. Thí dụ, một kiểu truyền thống là chàng và nàng yêu nhau, thế rồi có người thứ ba xen vào. Hay một hình thức ngang trái khác: tôn giáo dị biệt, hay gia đình một phía ngăn cản. Trong truyện của Trịnh Y Thư không có kiểu ngang trái truyền thống như thế.
   
Trong mối tình đầu, là nhân vật tên Minh, xưng tôi trong truyện, yêu say đắm với cô gái 15 tuổi H’Mông. Chàng là dân quân Việt Minh. Nhưng một tiểu đoàn trưởng Việt Minh ra lệnh xử tử toàn bộ ngôi làng H’Mông của nàng. Thế là nàng chết trong khi còn mang thai mấy tháng. Và trong một đoạn kết viết kiểu như một giấc mơ, tác giả kể lời nàng nói chuyện với em bé chưa sinh trong bụng.
   
Một mối tình cũng dị thường, cũng khó gọi là mối tình một cách bình thường. Bối cảnh ban đầu là miệt Khánh Hội, quận Tư ở Sài Gòn. Nhân vật nữ không được ghi rõ tên, trong truyện chỉ ghi là “cô” – có chồng đi học tập cải tạo, và đã chết trong trại. Cô phải nuôi một đứa con gái. Cô làm tiếp viên cho một quán cà phê vườn. Và đôi khi, cô bán thân. Một hôm, ông anh chồng của cô vượt biên, và dắt theo đứa con gái của cô. Lúc đó, cô không có mặt ở nhà, nên không cản được. Và như thế, cô trở thành một phụ nữ độc thân.
   
Nhân vật nam trong mối tình này là một Bác sĩ quân y cũa Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, tức là bên thắng cuộc. Tác giả không cho nhân vật này tên, chỉ ghi là “gã” – một đại danh từ ngôi thứ ba, dùng cho nam giới, hẳn là để phù hợp với “cô” dùng cho nhân vật nữ. Vị bác sĩ quân y này say mê cô. Liên tục tới quán cà phê suốt ba tháng, và rồi một hôm gã ấp úng nói với cô, xin gặp riêng cô. Cô không trả lời, lúc bưng tách cà phê ra, cô để trên khay một mảnh giấy nhỏ, ghi địa chỉ và nơi hẹn. Đó là một căn nhà tồi tàn trong một hẻm quận Tư.
   
Câu chuyện bắt đầu dị thường hơn. Cô bảo gã tắt đèn, hẳn là vì cô sẽ mắc cỡ khi trần truồng. Gã nói đừng tắt đèn, và gã ngăn cản khi cô cởi khuy áo. Gã không nằm, chỉ ngồi ngắm cô. Câu chuyện như dường không thể có thực trên đời này.
   
Tác giả Trịnh Y Thư viết:
   
Thấy gã, cô nằm xuống nhường chỗ ngoài mép giường cho gã. Gã lại ngồi lên giường bên cạnh cô. Gã phải ngồi gượng nhẹ lắm vì tiếng cót két  của  chiếc  giường  cũ  ọp ẹp  cứ  kêu lên liên hồi. Gã rút trong túi  ra  một xấp giấy bạc còn thơm mùi tiền mới nhét dưới gối cô nằm. Cô bảo gã:

    “Anh đi tắt đèn.”
    “Không, tôi thích để đèn.” Giọng gã từ tốn, êm nhu.
    Cô đưa tay lên lần cởi khuy áo nhưng gã giơ tay cản lại. Cô nhìn gã ra vẻ thắc mắc, gã bảo cô:
    “Cô cứ để nguyên quần áo. Tôi chỉ ngồi đây ngắm cô thôi.” (Trang 158-159).
   
Độc giả có thể tự hỏi rằng, gã ngắm những gì nơi cô, trong khi cô vẫn mặc áo quần? Ngắm xem vải màu xanh hay trắng, bạc màu chưa, hay ngắm những đường cong được áo quần che kín đáo? Nếu gã là họa sĩ, hẳn là muốn ngắm cô khỏa thân?  Không, đây là một nỗi buồn, chuyện rất buồn của quê nhà.
   
Nhà văn Trịnh Y Thư kể chuyện gã ngắm cô một cách say đắm:
   
Gã ngồi ngang đùi cô, từ vị trí đó, gã có thể ngắm mặt cô rồi đến bộ ngực vun tròn, và xuống dần hạ thể nơi cặp đùi đàn bà săn chắc hiện rõ dưới lớp vải mỏng của chiếc quần tây màu đen. Gã ngồi nhìn cô như thế cả nửa giờ đồng hồ, hai người không nói gì với nhau. Cô nhắm mắt lại, lim dim, như tránh cặp mắt u buồn của gã. Cái nhìn của gã không phải để tìm kiếm hưng phấn nhục cảm. Nó chẳng biểu hiện tí gì lòng say đắm ngây dại của người đàn ông bình thường trước thân thể một người nữ đang nằm chờ đợi mình đi vào. Nhưng nói nó vô cảm phẳng lì cũng không đúng. Nó xa vắng buồn bã đến lạ lùng như có điều gì u uẩn chất chứa nhiều năm tháng trong tâm tư. Cô phải công nhận gã có đôi mắt đẹp, hiếm thấy ở một người đàn ông. Đen sâu, long lanh như hai hạt nhãn. Da mặt gã trắng xanh như tất cả các anh bộ đội mới ở trong rừng ra, nhưng đó là khuôn mặt của một người hiểu biết và nhạy cảm.” (Trang 159).
   
Hiểu biết và nhạy cảm… đó là những chữ để khen ngợi một Bác sĩ quân y bộ đội. Mối tình giữa gã và cô còn kéo dài, và cô theo gã về làm dâu xứ Bắc. Truyện càng lúc càng buồn. Chỗ này, độc giả có thể tìm đọc thêm qua những dòng chữ cực kỳ thơ mộng của Trịnh Y Thư.
   
Mối tình thứ ba trong tiểu thuyết này cũng rất mực dị thường. Những dòng chữ khởi đầu cho Phần III của tiểu thuyết không dễ gặp trong đời thường, của một nhân vật nữ xưng tôi. Cô tự xem cô là nhân vật trong tác phẩm tiểu thuyết của gã nhà văn, và vì là nhân vật nên nàng cũng có cảm xúc riêng, và nàng nói rằng nàng căm thù chàng nhà văn đã sáng tạo ra cô:
   
Tôi thù gã nhà văn khôn tả. Tôi thù gã đến độ tôi muốn giết chết gã. Tôi ao ước có một mũi dao nhọn sắc lẻm cho tôi ấn sâu vào ngực gã với động tác êm nhẹ, từ tốn để trái tim gã khi bị mũi dao đâm thủng vẫn không hay biết đang bị đâm mà tiếp tục hân hoan đập những nhịp đập hối hả như thể sợ ngày mai không còn được đập.” (Trang 217).
   
Câu chuyện này là của nàng xưng tôi với người nam được gọi là “gã nhà văn.” Cô tự giới thiệu rằng cô là nhân vật nữ trong truyện của gã nhà văn trong cơ duyên nào đó, đã được bước ra đời thường như một thiếu nữ bình thường. Cô say đắm với gã nhà văn, người đang dạy ở một trường đại học, nhưng cô cũng sa ngã với một gã sinh viên trong trường đại học này.
   
Trịnh Y Thư kể về mối tình như hư ảo này: “Cuộc sống tôi trở nên phẳng lặng một cách nhàm chán, mỗi tối gã vẫn dắt tôi vào ăn tại các nhà hàng sang trọng có bồi bàn thắt nơ đen đứng hầu, nhưng khi về phòng gã lăn ra ngủ bỏ mặc tôi lên cơn thèm khát. Tôi là sản phẩm của gã nhưng một khi gã ném tôi ra ngoài này, tôi có cuộc sống của riêng tôi và tôi nổi loạn. Điều đó không có gì là bất thường và mỗi tuần hai ngày, khi gã có lớp dạy chiều, tôi mò lên phòng tên sinh viên làm tình với hắn. Tên sinh viên tôi gặp tại quán cà phê trước cổng trường đại học.” (Trang 230).
   
Tới nhiều trang sau, nhân vật xưng tôi là gã nhà văn, chàng kể về cô gái: “Tôi chú ý cô gái ngay hôm khai giảng lớp học. Cô ngồi bàn đầu, cô gái Á Đông duy nhất trong lớp học. Lớp này tôi phụ trách dạy gần mười năm nay từ khi về nhận làm giảng viên nơi đây, một trường đại học nhỏ nằm ngoài rìa một thị trấn mặc dù có tên trên bản đồ nhưng nói ra chẳng ai biết. Khu đại học tiếp giáp với cánh rừng phong bạt ngàn. Tôi ghét nghề dạy học nhưng nó giúp tôi có tiền sinh sống trong lúc cặm cụi viết sách, chờ ngày một nhà xuất bản nào đó chịu xuất bản tác phẩm của mình.”(Trang 237).
   
Và rồi nhiều trang sau, gã nhà văn kể rằng, một hôm cô gái tự nhận là nhân vật nữ trong tiểu thuyết của gã nhà văn. Trịnh Y Thư viết: “Không hiểu bởi nguyên cớ gì cô tự nhận cô là nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của tôi. Tôi có hai cuốn tiểu thuyết đã xuất bản, một cuốn tôi viết từ khi còn là sinh viên, cuốn kia ra mắt ba năm sau đó có một chút tiếng vang, nhưng ba tập bản thảo thì không nhà xuất bản nào chịu in. Thú thật tôi chẳng bao giờ có can đảm đọc lại những gì mình viết. Hai cuốn đã xuất bản, tôi bán đứt tác quyền cho nhà xuất bản và kiếm được món tiền kha khá, nhưng bọn phê bình đã viết những lời lẽ cay độc chê bai cả hai cuốn và kết quả sách tôi bán ra cho công chúng chẳng được bao nhiêu.” (Trang 242).
   
Câu chuyện còn nhiều chuyển biến dị thường nữa. Nhưng việc đó, xin để cho các bạn đọc tiếp. Văn của Trịnh Y Thư thực sự là một thế giới rất mực siêu thực, như dường không có trong đời này. Nổi bật trong tiểu thuyết Đường về thủy phủ là ba mối tình chúng ta sẽ rất hiếm gặp trong cõi này. Các nhân vật đều rất thơ mộng trong cõi riêng của mỗi người. Chỉ cần gặp một người như thế trong đời này là đủ để chết trọn một kiếp rồi.
   
Nhân vật nữ người H’Mông 15 tuổi rất mực ngây thơ, yêu chàng người Kinh 19 tuổi đang tham dự cuộc chiến chống Pháp trong cương vị dân quân du kích. Thế rồi nàng và cả bản làng bị ông Tiểu đoàn trưởng Việt Minh xử tử toàn bộ vì nghi bản làng giúp đỡ người Pháp.
   
Rồi tới nhân vật nữ trong giới trí thức miền Nam, có chồng chết trong trại tù cải tạo, có đứa con gái duy nhất được ông anh chồng vượt biên dắt theo. Cô gặp một bác sĩ quân y Bắc kỳ 75. Chàng say mê nàng, theo đuổi nàng, rồi rụt rè xin gặp riêng nàng để tặng tiền, chỉ để ngắm thân thể nàng trong tư thế nằm, với đầy đủ áo quần.
   
Rồi tới nhân vật nữ tự nhìn thấy cô như bước ra từ tiểu thuyết của một nhà văn đang mưu sinh bằng nghề dạy học ở một đại học rất nhỏ ở Hoa Kỳ, vì nhà văn này không thể sống bằng viết sách được. Mối tình giữa cô sinh viên và chàng nhà văn, cũng là giảng viên, bị trở ngại vì trường cấm ngặt chuyện giảng viên giao du tình cảm với sinh viên. Mà nàng cũng đâu có hiền gì, vẫn dan díu với những chàng sinh viên khác.
   
Truyện của Trịnh Y Thư thơ mộng là thế, đau đớn là thế. Cũng y hệt như cõi đời bất toàn này. Khi chúng ta buông ngòi bút xuống, rời bàn giấy, là các nhân vật trong truyện trở thành các hóa thân rực rỡ trong đời thường. Khi chúng ta khép lại trang giấy, và ngẩng đầu lên, chung quanh chúng ta bật sáng lên các nhân vật nữ của cõi mộng ngàn năm thi ca. Có phải rằng trong thâm sâu mỗi nhà văn vẫn luôn luôn là một chàng Tú Uyên, vẫn đang chờ đợi một nàng Giáng Kiều bước ra từ một bức tranh cổ họa để cùng bước bên nhau trong cõi đời bất trắc này? Và có phải Trịnh Y Thư chính là người đã hình tượng hóa những giấc mơ sâu thẳm đó bằng các mối tình trong Đường về thủy phủ?
 
– Phan Tấn Hải

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ở Phía Đông Âm Phủ” là một trong hai truyện tạo thành tập truyện có cùng tựa đề “Ở Phía Đông Âm Phủ” của nhà văn Nguyễn Viện. Sách dày 184 trang do Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2024. Ở âm phủ, dĩ nhiên, để bị trừng phạt và đền tội, nếu vậy, ngụ ý của tác giả là tội gì, đối với các nhân vật trong truyện, những lãnh tụ có thật đưa vào hư cấu, mang máu lịch sử, tạo ra những khúc quanh lớn cho dân tộc, chôn hàng hà sa số xương thịt của người dân, dù có ý định tốt đẹp? Đối với lãnh đạo, lý tưởng và hành động là hai bạn đồng hành, nếu họ yêu nhau, chuyện tốt đẹp sẽ xảy ra; nếu họ phản bội nhau, chuyện xấu xa sẽ xuất hiện sau mặt nạ son phấn của tuyên truyền.
Sách mới "Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ" của Nguyễn Viện, do NXB Tiếng Quê Hương (Mỹ) ấn hành, 2024. Gồm 2 truyện kịch: VÀ, HẮN ĐÃ ĐẾN & Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng nhận định: “Ở phía đông âm phủ” độc đáo ở chỗ tác giả không miêu tả trực tiếp nhân vật, mà để cho họ nói năng như trên sân khấu, như trong một vở kịch. Hình thức tiểu thuyết - kịch rất hiếm trong văn học Việt Nam… Những quan sát của anh sắc bén, và trong một ngôn ngữ đẹp, giản dị, tinh tế, dí dỏm, tôi thiết nghĩ anh đã thành công trong việc đánh thức ý thức lịch sử và xúc cảm cá nhân nơi người đọc. Nhà nghiên cứu lý luận Ngu Yên đúc kết: Trên con đường văn chương Việt, Nguyễn Viện trở thành một trong số ít nhà văn phiêu lưu, dọ dẫm vào miền văn học lạ lẫm.
Kề từ khi bệnh tật tận tình thăm hỏi, Khánh Trường đã cho ra đời: Truyện ngắn Khánh Trường (2016), Chuyện Bao Đồng (tạp bút, 2018) và các tiểu thuyết: Tịch Dương (2019), Dấu Khói Tàn Tro (2020), Bãi Sậy Chân Cầu (2020), Có Kẻ Cuồng Điên Khóc (2020), Xuyên Giấc Chiêm Bao (2021), Đừng Theo Dông Bão (2021). Nắng Qua Đèo (2021), Năm Tháng Buồn Thiu (2023), Cùng Nhau Đất Trời (2024) và cuối cùng là tập Thơ Khánh Trường (2024). Số tác phẩm đồ sộ này, ít ai, kể cả những tác giả sung sức nhất, làm nổi. Đúng là…kỳ vĩ! Cuốn “Cùng Nhau Đất Trời” này có chút khác với các cuốn trước vì tác giả ghi ngay ngoài bìa sách là “du ký tiểu thuyết”. Chuyện mới à! Mới nhưng truyện của Khánh Trường chằng bao giờ thoát ra khỏi tình. “Cùng Nhau Đất Trời” cũng vậy, đây là một truyện tình. Nhân vật chính không còn trẻ, đã 38 tuổi, chưa chồng con. Ông bố sốt ruột: “Cô tưởng cô còn trẻ lắm sao? Kén cá chọn canh mãi, mai mốt thành gái già, hối không kịp”.
Nhận được cuốn tiểu thuyết Đường về thủy phủ của nhà văn Trinh Y Thư, nghiền ngẫm đọc mấy hôm và suy nghĩ viết đôi lời cảm nhận cho tác phẩm của ông...
Tôi đã đọc bản thảo “Dòng Đời” khá là chậm. Đôi khi tôi đọc lại môt số đoạn, một số trang. Khi đọc lại toàn văn bản thảo lần thứ nhì, tôi lấy giấy ra ghi chú về các nhân vật, các mốc thời gian, những chuyển biến khi các nhân vật dời đổi từ bên dòng sông này qua thị trấn miền núi kia. Tất cả như một cuốn phim về một quê nhà đang tìm hướng đi trong thời kỳ hậu thực dân Pháp, nơi lối rẽ của tranh chấp để con sông trở thành đôi bờ và rồi người lái đò (trong tiểu thuyết này là người có tên là ông Ba Đò) trở thành người hai mặt, bị buộc cung cấp tin cho cả hai lực lượng thuộc hai ý thức hệ khác nhau.
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018. Như đã thượng dẫn, Trịnh Y Thư là một người đa tài, chúng tôi xin giới thiệu đại khái về từng bộ môn ông đã sinh hoạt. Trong bộ môn văn, ông đã viết và phổ biến rộng qua sách in từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, khảo cứu, nhận định văn học, tùy bút, tạp bút, tạp luận. Với bộ môn thi ca, ông có một số ít bài theo phong cách vần điệu nhưng không cùn mòn. Chúng tôi nghĩ ông rất hứng thú và chuyên về trường ca, hoặc những bài viết có số lượng câu không quá ngắn hoặc quá dài, và ông cũng sử dụng cả lối thơ Hokku với chỉ 3 câu cho từng khổ.
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.