Hôm nay,  

Tháng Tư, Đọc ‘Thủy Mộ Quan’ Của Nhà Thơ Viên Linh (1938-2024)

05/04/202400:00:00(Xem: 3306)
 
Hình trang nhất
Nhà thơ Viên Linh. Minh họa Đinh Trường Chinh
  
“Hồn còn tầm tã mưa rơi
Tháng Tư máu chảy một trời sương tan.”
 
Đó là hai câu thơ trong bài Gọi Hồn được in trong tập thơ “Thủy Mộ Quan” của nhà thơ Viên Linh, người vừa từ giã cõi mộng đi về chốn vĩnh hằng hôm 28 tháng 3 năm 2024 tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi.

Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy.” Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan.

Để tưởng niệm nhà thơ Viên Linh trong Tháng Tư lịch sử biến động của đất nước bốn mươi chín năm trước, xin đọc lại vài bài trong tập thơ “Thủy Mộ Quan” của ông, đã được Thời Tập xuất bản năm 1982 tại Virginia, Hoa Kỳ. Nhưng trước hết hãy nói sơ qua về “Thủy Mộ Quan.”
 
Thủy Mộ Quan trong sử mệnh của dân tộc Việt
 
Trong cuộc phỏng vấn do nhà phê bình văn học Thụy Khuê thực hiện và được Đài RFI tại Pháp truyền thanh về Việt Nam vào Chủ Nhật, ngày 5 tháng 7 năm 1992, nhà thơ Viên Linh đã giải thích ý nghĩa của “Thủy Mộ Quan,” mà qua đó ông nói rằng có thể hiểu Thủy Mộ Quan là “Cửa mở vào thế giới mồ mả ở đáy nước.”

Cũng trong dịp phỏng vấn nói trên nhà thơ Viên Linh cho biết tập thơ “Thủy Mộ Quan” gồm ba phần: Thủy Mộ Quan, Ngoại Vực và Dư Tập. Các bài thơ trong phần Thủy Mộ Quan được làm từ năm 1981 đến 1982. Các bài thơ trong phần Ngoại Vực được làm ở hải ngoại từ sau 1975 đến  năm 1982. Các bài thơ trong phần Dư Tập được làm ở trong nước trước năm 1975 mà ông đã tìm được trong các báo chí được lưu trữ tại các thư viện của các nước trên thế giới.

Trả lời cho câu hỏi của nhà phê bình văn học Thụy Khuê, trong cuộc phỏng vấn nói trên, về nội dung của phần “Thủy Mộ Quan,” nhà thơ Viên Linh liên kết từ thảm cảnh Biển Đông trong cuộc vượt biển có một không hai của nhân loại và dân tộc Việt Nam vào những năm sau 1975, đến chuyện “sóng nước” của lịch sử và huyền sử Dân Tộc từ xa xưa đến nay. Ông kể ra hàng loạt những thí dụ điển hình về mối liên hệ mang tính chất sử mệnh của người Việt với sông hồ biển cả, nước non. Trước hết là Động Đình Hồ, nơi phát xuất của tộc Bách Việt. Rồi đến cuộc sống nơi sông biển buộc người Việt phải có tục vẽ mình để chống lại các loài thủy quái. Và chuyện An Dương Vương khi phát hiện công chúa Mỵ Châu để lại dấu vết cho chàng Trọng Thủy tìm theo nên đã giết công chúa và nhảy xuống biển. Chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh. Chuyện Hai Bà Trưng liều mình ở dòng sông Hát. Chuyện oan tình đưa đến những cái chết nơi sóng nước như Trương Chi Mỵ Nương, Thiếu phụ Nam Xương, Hòn Vọng Phu, nàng Tô Thị, v.v… Sau đó là chuyện sông Gianh chia đôi sơn hà thời Trịnh Nguyễn. Chuyện sông Bến Hải chia cắt hai miền Nam Bắc vào thời chiến tranh Việt Nam giữa thế kỷ 20. Những chuyện Trâu vàng Hồ Tây, những Hồ Hoàn Kiếm, những Đầm Dạ Trạch, những Chử Đồng Tử sống ngoài biển cả xa xưa và những người phụ nữ Việt sống trên các đảo hoang thời vượt biển mới đây, sau năm 1975…

Trong bài “Thuyền Ngược Bến Không” giới thiệu thi tập “Thủy Mộ Quan,” HT Tuệ Sỹ đã liên tưởng chuyện xuống biển lên rừng trong huyền sử Dân Tộc Việt với thảm trạng lên rừng xuống biển của đất nước trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vào thế kỷ hai mươi:

“Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mở nước. Những người con theo Mẹ, đã có lúc khinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Một thời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốn theo, tìm về biển:
 
“Vua gặp Âu Cơ lúc thủy du
Cùng nàng rung động nước thiên thu
Duyên tan nàng bắt con về núi
Những đứa theo cha khổ đến giờ”(Thủy Mộ Quan)
         
Giới thiệu phần Ngoại Vực của “Thủy Mộ Quan,” nhà thơ Nguyên Sa đã viết trong bài “Đọc Thơ Viên Linh” được đăng trong Tạp Chí Đời Magazine năm 1983, như sau:

“Ngoại Vực, tôi nghĩ đó là sự chuyến tiếp. Nơi cõi ngoài đó còn gương lệch, và đã hé mở Thủy Tang. Ngoại Vực là con đường đưa Viên Linh đi từ Lục bát và Năm chữ sang Bẩy chữ, từ những bài không giới hạn đến một kích thước nhất định của bầu trời nhị thập bát tú, thơ tình dằn vặt trong những tìm kiếm bản ngã tới một thế giới thơ khác, một thứ thơ nhật ký, nơi đó không phải chỉ có tình yêu, cái tôi. Bạn tìm thấy không trong đáy sâu thẳm của Thủy Mộ Quan tâm sự của người binh bại, đoạn 2 của người tình nhận thức được sự trôi chảy của thời gian, đoạn 5 thật nhiều hồi tưởng, đầy ắp những thuyền nhân u uất trong lòng biển.”
 
Đọc vài bài thơ trong Thủy Mộ Quan
 
Nếu đọc “Thủy Mộ Quan” theo dòng thời gian thì phải đọc phần Dư Tập trước, vì các bài thơ trong phần này được nhà thơ Viên Linh sáng tác trước năm 1975, có nghĩa là sớm nhất so với hai phần còn lại của tập thơ. Trong phần này có bài Sinh Nhật mà nhà thơ Viên Linh đã làm lúc ông trên ba mươi tuổi, nếu tính từ năm sinh của ông 1938 thì lúc đó là sau năm 1968. Bài thơ này ông làm vào cuối năm, “năm tận,” để nói lên cảm nghĩ về cuộc đời của chính ông lúc trên ba mươi tuổi. Bài thơ có nhiều đoạn mang nội hàm triết lý sống sâu sắc. Bài thơ không dài lắm nên xin viết hết ra đây để độc giả cùng đọc. 
 
“Hôm nay năm tận, Sài Gòn
Tôi nghe khiếp hãi tâm hồn già nua
Giật mình con quỉ ban trưa
Tiếc mùa hoan lạc hái chưa đủ hời.
 
Hôm nay trời đất có tôi
Trên ba mươi tuổi làm người lãng quên
Xuân hồng, một góc thiếu niên
Năm năm mê mải những miền hoài nghi.
 
Trên ba mươi tuổi ù lỳ
Đêm về kéo cửa ngày đi kiếm mình
Cảnh đời, một cõi u minh
Cảnh tôi thấp thoáng bóng hình những ai.
 
U mê hết tháng năm dài
Chân trong lối kiệt hồn ngoài bến không
Hôm nay năm tận, bàng hoàng
Giục thêm tiệc rượu ngồm ngoàm đĩa vơi.
 
Nhìn ra cảnh cỗi, riêng tôi
Trong hiên viễn phố thấy đời buồn lây.”
 
Bài thơ này chứng tỏ ông không “u mê” chút nào, bởi vì ông thật sự rất tỉnh. Có tỉnh ông mới nhìn ra được cái “u mê” của mình, mà không phải ai cũng có thể tự tỉnh thức như thế. Cái câu “Hôm nay trời đất có tôi,” đã nói lên được điều này. Khi ông tự ý thức được sự hiện hữu của mình, như một con người, như một “nhân,” trong Thiên-địa-nhân, gồm trời, đất và con người. Đó là một con người đứng giữa trời đất, đứng ngang hàng với trời đất, tự quyết định vận mệnh, sinh mệnh của mình giữa trời đất.

Tiếp theo là bài Lầu Chuông trong phần Ngoại Vực mà ông đã làm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhưng trước năm 1982. Bài này ông viết để tặng cho người em của ông là ông Chơn Pháp Nguyễn Hữu Hiệu, đã từng làm Trưởng ban Tu Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975, góp phần vào việc phát triển Đại Học Vạn Hạnh trở thành đại học tư thục uy tín hàng đầu tại Việt Nam. Nhà thơ Viên Linh đặt tựa “Lầu Chuông,” theo tôi, có lẽ có hai ý: Lầu chuông liên quan đến chùa, đến Phật Giáo, và lầu chuông gợi lên ý tưởng về một “lầu chuông gác sách” trong các ngôi cổ tự thời xưa, mà ở đây là chỉ cho thư viện Đại Học Vạn Hạnh.

Bài thơ đã cho người đọc thấy và biết được những chuyện đau buồn sau biến cố đổi đời Tháng Tư năm 1975, khi giới văn nghệ sĩ và trí thức Miền Nam bị vùi dập tơi tả. Hai đoạn đầu của bài thơ cho thấy điều ấy:
 
“Nhận tin em một năm rồi
Thành xưa đã đổi con người đã thay
Cơn mưa chia biệt tháng ngày
Vẫn rơi tầm tã lòng này đêm đêm.
 
Mưa lầy con phố bôi tên
Em chôn tầm vóc thanh niên giữa đời
Nhớ em biển sách làm khơi
Thả thân trôi giạt với lời muôn phương.”
 
Mấy câu, “Thành xưa đã đổi con người đã thay,” và “Mưa lầy con phố bôi tên,” đã chỉ thời đất nước đã thay ngôi đổi chủ và các con đường cũng bị đổi tên dưới chế độ cộng sản sau năm 1975. Cùng với thời cuộc đổi thay, tuổi thanh xuân đang tràn đầy nhiệt huyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng thì lại bị chôn vùi, “Em chôn tầm vóc thanh niên giữa đời.” Cái bi kịch của đất nước sau Tháng Tư năm 1975 đã được phô lộ rõ nét trong mấy đoạn sau của bài thơ:
 
“Em tôi không sách không đèn
Một đầu tư tưởng bôi lem nghĩa đời
Đêm nay tầm tã mưa rơi
Tỉnh ra tôi thấy mặt trời trắng tinh.
 
Thấy trăng mọc lúc bình minh
Thấy người lưu xứ lênh đênh quê nhà
Thấy tôi đập kính soi hoa
Trên cây nhân thế la đà trái đen.
 
Thấy tôi nguyền rủa Thánh Hiền
Cầm dao giết Phật giả điên đốt chùa
Nhớ mưa xưa nhớ mưa xưa
Tháng tư úng thủy đầu mùa máu tuôn.”

Vien Linh 02

Thuyền nhân Việt Nam lênh đênh trên biển cả. (Photo: www.pixabay.com)

 
Tháng Tư mới chỉ là “đầu mùa máu tuôn,” bởi vì những năm tháng sau đó đất nước chìm sâu trong ngục tù, đói khát, lầm than và đau đớn, mà làn sóng vượt biên, vượt biển ra đi tìm tự do của hàng triệu người Việt là minh chứng. Trong làn sóng vượt biển đó, có hàng trăm ngàn người Việt đã vùi thây dưới lòng đại dương. Bài Gọi Hồn trong phần Thủy Mộ Quan của nhà thơ Viên Linh được viết vào năm 1981 để “tưởng nhớ những oan hồn uổng tử trên Biển Đông.” Bài thơ gồm hai phần: những đoạn đầu là thi điếu cho những oan hồn uổng tử và những đoạn sau nói lên ước nguyện có một ngày những người con của Lạc Long và Âu Cơ gặp lại nhau trên cố hương để cùng xây dựng lại cơ đồ. Bài thơ khá dài nên xin chép đăng phần đầu như lời chiêu niệm “Tháng Tư máu chảy một trời sương tan.”
 
“Trên Huyết Hải thuyền trôi về một chiếc
Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương
Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương
 
Thấp thoáng trần gian
Mịt mù bóng đảo
Trôi về tây về bắc về đông
Trôi về đâu bốn bề thủy thảo?
Về đâu kiếp đắm với thân trầm?
 
Hồn ơi dương thế xa dần
Hồn đi thôi nhé thủy âm là nhà
Hồn về trong cõi hà sa
Sống không trọn kiếp chết là hồi sinh.
 
Xong rồi một cỗi u minh
Ngựa Hồ chim Việt biến hình mà đi.
 
Hồn vẫn ở la đà Đông Hải
Hồn còn trôi mê mải ngoài khơi
Hồn còn tầm tã mưa rơi
Tháng Tư máu chảy một trời sương tan.
 
Thân chìm đắm cõi điêu tàn nước cũ
Những lâu đài thành quách những vàng son
Những tân thư kỳ mặc những linh đường
Những rực rỡ của một thời dựng nước.
 
Bao mắt mở bao tóc sầu dựng ngược
Bao tay cùm bao ngực vỡ hôm qua
 
Trong rêu xanh ngần ngật bóng sơn hà
Lướt hải phận về dưới trời cố quốc.
 
Nhắm hướng hôi tanh
Chia bày trận mạc
Hồn binh tàn hỗn chiến Thủy Môn Quan.
 
Đêm rơi thời hết vận tàn
Ô y cầu nhỏ người sang Lạc Hà
Thác rồi thân hóa phù sa
Mon men trở lại quê nhà mỗi đêm.
 
Về đâu đêm tối
Hương lửa lung linh
Những ai còn bóng
Những ai mất hình?
 
Những ai vào kiếp phù sinh
Hóa thân hồ hải làm binh giặc trời
Khi nào hết quỉ ngoài khơi
Ta vào lục địa ta hồi cố hương…”
 
Bốn mươi ba năm sau đọc lại vẫn có cảm giác nghẹn ngào vì những ký ức đau thương của một thời tao loạn đã bùng dậy. Lời thơ bi ai, tuyệt vọng như tâm trạng của những oan hồn uổng tử bơ vơ, lạc lõng giữa trời biển bao la! Tưởng niệm Tháng Tư, xin thành tâm cầu nguyện cho những vong linh được siêu thoát. Cầu chúc nhà thơ Viên Linh thong dong vào cửa Vô Môn Quan… 
 
Huỳnh Kim Quang
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
Bạn có thích đọc thơ không? Người ta nói, mỗi người Việt là mỗi nhà thơ. Nhà thơ sao lại không đọc thơ? À, như vậy, bạn có đọc thơ. Dĩ nhiên bạn thích đọc thơ hay. Nhưng làm thế nào để biết bài thơ hay? Có bài thơ được nhiều người khen hay quá trời, sao bạn lại nghĩ là dở. Hoặc bạn hí hửng khoe bài thơ hay vừa đọc được, người bạn đọc xong, lắc đầu. Sao vậy? Thơ hay không bảo đảm người đọc đồng ý với nhau. Hãy hỏi bạn Trí Thông Minh Nhân Tạo (A.I.), trông cậy anh ta biết nhiều, hiểu rộng, có thể cho đôi lời vắn tắt.
Tôi có một thói quen xấu khi đọc sách – luôn bắt đầu bằng cách mở trang cuối và đọc hàng cuối rồi gấp sách lại xem đầu óc mình nghĩ gì. Hôm nay, mở cuốn “Stories from the Edge of The Sea”, cuốn sách dày 216 trang với 14 truyện ngắn của tác giả người Mỹ gốc Việt Andrew Lâm, tôi lẩm nhẩm: “Hãy đứng đến giây phút cuối cùng, và bạn sẽ không bao giờ, không bao giờ phải đứng một mình.“* “Giây phút cuối cùng”? Không hiểu sao hình ảnh Việt Nam những ngày cuối tháng Tư, 1975 hiện về. Dẫu chỉ là một đứa bé con 6 tuổi vào thời điểm này, nhưng lớn lên và sống với những hệ lụy lịch sử kéo dài từ cái ngày định mệnh đó, ngay trên mảnh đất quê hương bị đánh mất, những mảng đời, những câu chuyện, những ám ảnh, những mất mát luôn là những gì mà chính tôi, bạn bè tôi, gia đình tôi, quê hương, dân tộc tôi, vẫn gồng mình hứng chịu… dẫu nửa thế kỷ đã trôi qua. Tôi hiểu mình sẽ bắt đầu đọc cuốn sách này bằng một sự “khó ở” trong lòng của một độc giả người Việt sống xa quê hương, trong tâm trạng u uẩn
Cô lớn lên như một đứa con gái tomboy, đánh gậy bóng chày giỏi hơn thằng em trai mình, có thể đá văng cặp kính ra khỏi mặt một thằng con trai, và vì thế cô không gần với mẹ lắm. Cô chẳng thấy mẹ mình có gì đáng yêu kính. Bà là người với một thân hình đẫy đà, có tật ngồi lê đôi mách, luôn tay luôn chân công việc nhà cửa, lại nợ nần cờ bạc, chẳng bao giờ thích hoạt động ngoài trời, vì quá quan tâm đến những chuyện trong gia đình nên bà chẳng hề đi đâu thăm thú thế giới, đại dương này nọ, ví dụ, bầu trời xanh chẳng có gì cho bà quan tâm, thấy thú vị.
Hôm nay 17 tháng 3, 2025, dân chúng Canada tạm biệt Justin Trudeau. Tôi yêu mến thủ tướng và tự hào về ông. Trudeau nói: Dân chủ không phải được ban cho, tự do không phải được ban cho, Canada cũng không phải được ban cho. Bạn phải giành lấy chúng bằng tất cả lòng can đảm, sự hy sinh và công việc cần mẫn mỗi ngày.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.