Hôm nay,  

Đêm Thánh Vô Cùng – Silent Night

24/12/202307:14:00(Xem: 2866)
Tùy bút

silent

Mùa Đông năm 1975 gia đình tôi dự Lễ Giáng Sinh đầu tiên trên đất Mỹ. Tôi nhớ rất rõ đêm Giáng Sinh đó, hình ảnh đó cho đến ngày hôm nay, gần 50 năm sau vẫn hiện ra rõ rệt.
    Gia đình tôi lúc xuất trại thì Ba Mẹ và tôi chung một hộ, được đón ra ở Encino-Ca. Gia đinh chị tôi thì đi DC-Washington, em gái tôi thì ở Orange County. Gia đình như chiếc bình vỡ, rơi ra mỗi nơi một mảnh.(Trước ngày di tản, đại gia đình chúng tôi ở trong một khu phố, hai, ba căn nhà sát vách nhau.)Từ nhỏ cho đến khi lập gia đình: Anh,Chị, Em chúng tôi may mắn luôn luôn được ở gần Cha Mẹ.
    Bây giờ (1975) thì mỗi tiểu gia đình ở một nơi, anh lớn nhất thì kẹt lại Việt Nam với vợ con.
    Chúng tôi chọn đi dự Lễ Giáng Sinh lúc 7 giờ tối, nhà Thờ gần đi bộ được, không làm phiền người bảo trợ.
    Ngồi chung vào với những gia đình Mỹ khác, chúng tôi rất lạc lõng và lẻ loi. Nhất là Mẹ tôi với chiếc áo dài Việt Nam.
    Nhà Thờ với hang đá, đèn nến sáng trưng, mùi thơm của trầm hương và sắc đỏ của hoa Trạng Nguyên (Poinsettia) chung quanh hang đá, làm nên một Đêm Thánh thiêng liêng và lộng lẫy.
Một giải băng kim nhũ giăng ngang hang đá với hàng chữ:
    Gloria In Excelsis Deo (Sáng danh Thiên Chúa trên trời, Bình An dưới thế cho người thiện tâm).
    Có phải vì người thiện tâm không nhiều lắm, nên trần thế vẫn chưa bình an!
    Trong khung cảnh thiêng liêng của đêm Thánh đó, ba người chúng tôi nghẹn ngào thấy mình vừa may mắn vừa tủi thân. Đất lạ quê người thân du mục. Rồi đây chúng tôi sẽ sống đời mình ra sao? Tương lai nào đang đón chờ chúng tôi?
    Tôi nhìn Cha rồi nhìn Mẹ, hai mái tóc pha sương.Cha tôi năm đó đã 71 tuổi, Mẹ tôi 66 tuổi và tôi, ở cái tuổi không có quyền mơ mộng nữa, dù muốn dù không tôi phải có bổn phận với gia đình.Cha mẹ tôi mong tất cả các con ở cạnh mình như trước kia ở Việt Nam.
    Tôi đứng giữa nhà thờ, giữa giây phút thiêng liêng của thánh lễ, chìm đắm vào hương trầm, vào lời nguyện của linh mục và của Thánh Ca.
    Cha Mẹ tôi chắc cũng đang giống tôi, ngắm nghía Máng Cỏ có Chúa Hài Đồng, nhìn linh mục giơ tay ban phép lành và nghiêng tai nghe Thánh Ca.
    Nhạc Giáng Sinh là nhạc hầu như được cả phần đông thế giới chấp nhận và yêu thích. Người mang tôn giáo nào cũng thích nhạc Giáng Sinh vì đó là loại nhạc mang đến tình yêu và yên bình cho nhân loại.
    Bản nhạc Silence Night được Ca Đoàn cất lên:
 
    Silent night, Holy night
    All is calm all is bright.
    'Round yon virgin Mother and Child
    Holy infant so tender and mild
    Sleep in heavenly peace
    Sleep in heavenly peace

    Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng
    Đất với trời se chữ Đồng
    Đêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ
    Canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa
    Ơn châu báu không bờ bến
    Biết tìm kiếm của chi đền.
  
Nước mắt tôi giàn giụa chẩy. Tôi liếc nhìn sang Cha Mẹ, Cha Mẹ tôi không hiểu được lời bài hát, nhưng những nốt nhạc bật lên đã đánh thức được tâm trí họ về bài Đêm Thánh Vô Cùng ở một ngôi nhà thờ xa xăm trên quê hương họ đã bỏ đi.Nước mắt họ ứa ra như những giọt lệ trên cây nến.
    Thế rồi, chúng tôi đi từ thành phố này, tới thành phố khác, từ Tiểu Bang nọ tới Tiểu Bang kia. Tôi như nhánh lục bình vừa trôi vừa nở và tắp vào một bến.
    Bến nào thì cũng vẫn không phải là bến quê hương.
    Bây giờ Cha Mẹ tôi đều đã qua đời, anh chị em chúng tôi được may mắn sống trong cùng một thành phố. Chúng tôi có nhà thờ Việt Nam, có ca đoàn hát Thánh Ca Việt Nam và mỗi lần bài Silen Night cất lên ở nhà thờ trong Đêm Giáng Sinh, dù bằng ngôn ngữ nào, nước mắt tôi vẫn nhạt nhòa.
    
    Ôi Chúa thiên đàng, cam nếm cơ hàn
    Nhấp chén phiền vương phong trần
    Than ôi Chúa thương người đến quên mình
    Bơ vơ chốn quê nhà lúc sinh thành
    Ai đang sống trong lạc thú
    Nhớ rằng Chúa đang đền bù
 
Mặc dù không sống trên phần đất quê cha đất tổ nhưng chúng tôi đang được sống trong một đất nước an hòa không có chiến tranh, những nhiễu nhương đời sống có xẩy ra như bất cứ nơi nào trên mặt đất, hồng ân Thiên Chúa luôn che chở đền bù.
    Đêm Thánh vô cùng đó, dù hiện ra ở thời điểm nào cũng mang hòa bình an lạc đến cho nhân loại, nhất là những người tha phương, như xưa gia đình Thánh Gia phải tha phương.
    Đêm Giáng Sinh là một đêm đầy niềm tin và hy vọng cho nhân loại. Hãy nhìn những ngôi sao lấp lánh chiếu sáng bầu trời, lắng nghe thiên thần ca hát mừng rỡ, chiên lừa đang phà hơi thở ấm trong hang đá đầy tuyết sương. Chúa Con đã xuống thế làm người.
   
    Tinh tú trên trời, sông núi trên đời
    Với thánh thần mau kết lời
    Cao sao hóa công đã khéo an bài
    Sai con hiến thân để cứu nhân loại
    Hang chiên máng rêu tạm trú
    Bốn bề tuyết sương mịt mù.
 
Đêm Thánh năm nay hay Đêm Thánh của những năm kế tiếp trong phần đời còn lại, tôi luôn hân hoan đón nhận cảm tạ Thánh Ân, nhưng tôi không bao giờ quên được Đêm Thánh đầu tiên xa quê hương trong đời một người di tản.
    Chao ôi! Giọt lệ ứa ra trong năm đó,còn ướt trên lưng bàn tay đến bây giờ.
 

– Trần Mộng Tú

Giáng Sinh 2023

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.