Hôm nay,  

Đọc thơ tình của một người lính cũ

10/12/202308:46:00(Xem: 3644)
tim lai dau xua

Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỷ và nay chúng ta đang sống trong giai đoạn 4.0 nên thế giới phẳng. Nhờ đó có sự kết nối giao lưu tương tác giữa những người có cùng sở thích. Trong số những tín đồ thi ca, tác giả Ngọc Trân là một trong những cây bút sáng tác nhiều thơ trữ tình. Gần đây anh có gửi cho tôi bản thảo tập thơ Tìm Lại Dấu Xưa sắp xuất bản có trên 100 bài. Tôi cũng đã lần theo cảm xúc, như đi vào thế giới nội tâm của anh để vui buồn cùng tác giả trên từng câu chữ. Cũng là tín đồ của văn chương nên tôi đã đọc thơ Ngọc Trân với một niềm yêu thích thơ ca thuần túy như thế!
    Xin giới thiệu đôi nét về tác giả Ngọc Trân, tên đầy đủ là Nguyễn Ngọc Trân.
Anh sinh năm 1948 (Mậu Tý) tại Thái Bình, vào năm 1954 gia đình di cư vào Nam và sống tại Saigon lúc này anh được sáu tuổi. Anh sinh ra ở Bắc, học hành và trưởng thành ở Nam. Như vậy anh được hấp thụ cả hai vùng miền văn hóa, thừa hưởng nét tinh tế sâu sắc của trí tuệ miền Bắc, trước hết từ nền tảng gia đình, từ các bậc song thân của anh và chất nghĩa hiệp và hào sảng xởi lởi của tính cách Nam bộ. Saigon là nơi anh có thời gian gắn bó học hành từ lúc bắt đầu cắp sách tới trường cho đến tuổi trưởng thành. Hồn thơ anh được hun đúc từ đó. Từ nhỏ anh đã rất yêu thích các môn Nghệ Thuật nói chung và văn chương nói riêng. Anh cũng thích ca nhạc và hát rất hay! Nếu anh sinh ra trong thời bình thì có lẽ trở thành một kỹ sư ngành kỹ thuật nào đó, kiêm nhà thơ, kiêm luôn cả ca sĩ chứ chả chơi.Thầy giáo dạy nhạc đã sớm phát hiện ra năng khiếu của Nguyễn Ngọc Trân và giới thiệu vào trường quốc gia âm nhạc nhưng bố anh không chịu. Anh không hề kể là anh học giỏi môn nào nhưng qua cách chia sẻ trên trang cá nhân tôi nhận thấy anh toàn diện về cả các môn khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội. Nhưng mà con người sinh ra trong giai đoạn, hoàn cảnh nào đều chịu chi phối ảnh hưởng của giai đoạn lịch sử đó. Và Nguyễn Ngọc Trân cũng vậy!
    Trước khi vào lính, anh là học sinh của trường trung học Nguyễn Trãi, Saigon. Nhập ngũ năm 1970, hai mươi hai tuổi, tốt nghiệp trường võ khoa Thủ Đức Binh chủng phục vụ Biệt động quân. Năm 1975, anh trở thành người lính thua cuộc khi tuổi đời còn rất trẻ mới hai mươi bảy tuổi. Đi qua chiến tranh nhưng nguyên vẹn trở về, may mắn thay! Hiện cư ngụ tại bang Minnesota Hoa Kỳ.
    Môi trường sống, nghề nghiệp tác giả không nói thì người đọc cũng thấy nó hiện ra trên trang viết lúc rõ nét lúc ẩn mình. Cuộc đời văn nhân hay thi nhân đều để lại bóng dáng trên câu chữ. Anh sáng tác khá nhiều, số lượng lên đến mấy trăm bài, đã xuất bản một tập còn thơ chưa xuất bản cũng đến vài tập nữa. Đa số đều là thơ trữ tình: Nói một cách khái quát vẻ đẹp của tập thơ bắt nguồn từ những dòng cảm xúc rất chân thành, giàu hình ảnh và giàu sắc thái biểu cảm. Lời thơ trong sáng dễ hiểu, nghệ thuật lập tứ gieo vần và cách dùng từ dung dị.
    Thời học sinh anh đã từng làm thơ, “những bài thơ còn hoài trong vở”. Làm thơ cho mối tình đầu rất đẹp, rất lãng mạn nhưng chưa dám tỏ. Mối tình không đi tới đâu vì thơ không đến tay người nhận, viết chỉ để gửi gắm nỗi niềm nhưng đó là những sáng tác khởi đầu trong nghiệp làm thơ của anh. “Ngày xưa vì quá dại khờ/ Yêu người chỉ biết làm thơ riêng mình/ Để rồi người dệt mộng xinh/ Theo chồng mang cả mối tình tôi đi”.
    Tình yêu thuở đầu đời là mối tình tuổi học trò trong trắng tinh khôi nhưng lại là dấu ấn khó phai: “Ngày xưa ta chung lối/ Cùng cắp sách đến trường/ Tình như trang giấy mới/ Mộng ước thật bình thường” (Ngày xưa ta chung lối). Sau này, trong bước đường xuôi ngược, dãi dầu sương gió ở quê người, hồi ức thỉnh thoảng bất chợt lại ùa về. Hình ảnh hoa phượng, tiếng ve gắn liền với một thời tuổi ngọc dù đã lùi xa vào dĩ vãng vẫn hiện ra rõ mồn một như mới đây thôi! Tiếng lòng thi nhân lại được khắc họa vào thơ một hoài niêm thật đẹp. Và được thể hiện trong những vần thơ lục bát mượt mà sâu lắng. “Nhớ ve sầu khóc tiễn đưa/ Nhớ hoa phượng thắm hè xưa năm nào/ Thời gian một thoáng qua mau/ Bọn mình giờ đã dãi dầu nắng mưa.”
    Thơ tình Ngọc Trân có đủ cung bậc ngọt ngào, lãng mạn, tha thiết và đắm say.
“Thương nhớ lắm người ơi thương nhớ lắm/ Biết làm sao giờ chẳng biết làm sao/ Mượn vần thơ cho đỡ vấn vương sầu / Gởi theo gió những lời tha thiết nhất […] Tri âm ơi anh nào có đâu ngờ / Tình đã dệt cuối đời vương sầu mộng! (Biết làm sao).
    Sống bên kia trời Tây, nhưng mỗi mùa Thu tới, cũng là mùa tựu trường, thì dáng xưa của “cái thuở ban đầu ấy” lại thoáng chênh chao một nỗi nhớ trong anh! “Ngoài hiên lành lạnh gió thu về/ Buồn trông từng cánh lá bay đi / Bâng khuâng nhớ những mùa thu trước / Bóng dáng người xưa chợt hiện về.” (Vẫn mãi trong tim chuyện ban đầu).
    Đời lính chiến vất vả gian lao và khắc nghiệt bởi “chiến tranh không phải trò đùa”. Chuyện sống chết trong gang tấc là thế nhưng người lính mang tâm hồn thi sĩ vẫn mộng mơ thả hồn vào câu chữ, lãng mạn và tình tứ. “Đời lính gian lao nhưng vẫn mơ / Vẫn mộng cùng ai chuyện hẹn hò./ Những đêm trốn pháo trong hầm kín / Vẫn thả hồn theo những vần thơ.” (Ta đã xa rồi nhưng vẫn nhớ).
    Năm tháng qua đi, vật đổi sao dời nhưng nỗi khắc khoải thì vẫn còn nguyên vẹn, mỗi lúc nhớ về lại bồi hồi rung cảm và nỗi nhớ lại thảng thốt thành thơ. “Trong ta nỗi nhớ còn nguyên vẹn/ Một thuở yêu người vẫn thiết tha/ Đã bao lâu rồi không gặp lại/ Người ơi người có nhớ đến ta? (Người đâu rồi?)
    Hình bóng ấy có lẽ ẩn sâu trong tiềm thức, được xếp một góc khuất nào đó trong tận buồng tim. Cuộc sống hiện tại hối hả cuốn đi với cơm áo đời thường, nhưng khi màn đêm tĩnh lặng chìm vào giấc ngủ thì nỗi day dứt chia xa, cũng thoáng hiện về trong giấc mơ một bóng hình người cũ: “Một thoáng đời qua như giấc mộng/ Nhiều đêm chuyện cũ vẫn hiện về/ Chập chờn trong giấc chiêm bao ngắn/ Vẫn thấy cùng nhau hẹn ước thề!”
    Như vậy, khi đối diện với chính mình thơ đến với anh tình cờ theo dòng cảm xúc. Thơ là tiếng nói của con tim của cõi lòng thi nhân. Anh nhờ ngôn từ gửi gắm nỗi niềm, những vui buồn trong cuộc sống. Trong thơ anh còn thể hiện tình yêu hòa bình, ghét chiến tranh, mong đất nước thanh bình, người người xây đắp hạnh phúc bình yên: “Đời lính trận sẽ không còn sương gió/ Anh sẽ về với người em gái nhỏ/ Dệt tình yêu xây mộng ước tương lai/ Chuyện chiến tranh như một giấc mộng dài/ Không còn nữa những chia ly ngăn cách.” (Anh sợ lắm).
    Ngoài mảng thơ tình chiếm ưu thế thì anh cũng dành những vần thơ cho người thân đặc biệt là thơ viết về mẹ – tình mẫu tử với những tình cảm thiêng liêng lay động tâm tư người đọc: “Bao năm dãi nắng dầm sương/ Sớm hôm tần tảo nuôi con nên người/ Thời gian trôi mẹ già rồi!/ Tóc như mây trắng bồi hồi lòng con! (Lời ru của mẹ).
    Mẹ cho con hình hài, vất vả tảo tần hôm sớm để nuôi con khôn lớn. Hình ảnh mẹ lưng còng, tóc trắng, dáng đi không còn khỏe mạnh như xưa làm con quặn thắt lòng và lo lắng trước thời gian. Vì Thời gian trôi đi cũng có nghĩa là thời gian con có mẹ phía trước không còn nhiều. “Tóc bạc trắng đời còn bao lâu nữa/ Lưng đã còng vì mãi gánh đời con/ Nhìn mẹ đi run rẩy sắt se buồn/ Con với mẹ thời gian thu ngắn lại. (Ngày của mẹ).
    Tấm lòng của người con chí hiếu được anh gửi gắm qua thể thơ thơ lục bát. “Mẹ cha lận đận lao đao/ Nuôi tôi khôn lớn biết bao nhọc nhằn.”
    Cuộc sống với bao bộn bề như vậy nhưng mỗi dịp xuân về tết đến hay dịp lễ Giáng Sinh nỗi niềm thương nhớ cha mẹ, nhớ quê nhà lại dâng lên. “Ta lại đón Giáng Sinh trong nỗi nhớ/ Nhớ thật nhiều quê mẹ Giáng sinh xưa” (Giáng sinh trong nỗi nhớ).
    Đặc biệt tết đến, nhớ cành mai vàng quê nhà mà nơi đây không có, anh cảm thấy cô đơn, lạc lõng nơi xứ người và nỗi nhớ quê hương lại đau đáu trong anh: “Ta lạc lõng mừng Xuân trên xứ lạ/ Không mai vàng khoe sắc đó Xuân sang. ”(Nhớ xuân xưa).
    Những người con sống xa xứ như anh luôn nhớ quê nhà nhất là thời khắc giao thừa thì nỗi nhớ lại càng mãnh liệt, day dứt hơn bao giờ hết: “Tờ lịch cuối năm vừa gỡ xuống/ Bâng khuâng ta lại đón giao thừa/ Bốn bề hiu quạnh đêm trừ tịch/ Trông về quê mẹ nhớ xuân xưa!” (Đón giao thừa). “Nhớ quá Saigon đêm giao thừa/ Pháo nổ mừng xuân khắp mọi nhà/ Tiếng hát tưng bừng chào xuân đến/ Hân hoan con cháu chúc ông bà.” (Nhớ tết Saigon).
    Bóng dáng nguyên quán cũng hiện ra trong những giấc mơ của anh với hương thơm của cánh đồng lúa đang trổ bông, hình ảnh cậu bé chân bước trên triền đê cùng tiếng sáo diều. “Đêm mơ ta thấy về quê cũ/ Thăm cánh đồng xanh lúa trổ bông/ Chân bước trên đê thơm hương lúa/ Tiếng sáo diều vi vút trên không” (Đêm mơ ta thấy về quê cũ).
    Tình bạn cũng là những cảm xúc anh dành riêng trong những vần thơ ấm áp tình thân hữu:“Ta nhớ mãi thuở quần xanh áo trắng/ Bạn cùng ta ngày cắp sách đến trường/ Tuổi thơ ngây lòng chưa chút sầu vương/ Yêu đất nước qua từng trang sử cũ.” (Bạn cũ trường xưa).
    Nhưng cũng có người bạn khi anh có dịp trở về thì bạn đã đi xa, không bao giờ gặp nữa chỉ còn một nỗi nhớ tiếc khôn nguôi và để lại niềm đau như tiếng nấc trong thơ. “Hôm nay về lại thăm trường cũ/ Thắp nén hương lòng nhớ bạn xưa/ Sân trường hoa phượng dường như khóc/ Bạn thân ơi nhớ mấy cho vừa! (Nhớ bạn). Nhớ Hoàng sa, nhớ từng tấc đất quê hương, anh thể hiện qua những vần thơ bảy chữ lòng biết ơn và đau xót những người đã ngã xuống để bảo vệ biển đảo: Lời thơ như một nén hương lòng/ Thắp lên tưởng nhớ các anh hùng/ Giữ đảo thân vùi chôn đáy biển/ Nhưng anh linh tỏa sáng non sông. ”(Nhớ Hoàng Sa). Đi qua những thăng trầm dâu bể của đời người, vui buồn nếm đủ, anh có những vần thơ đầy chiêm nghiệm, ẩn chút triết luận nhẹ nhàng: “Một thoáng đời như giấc chiêm bao/ Lao đao cõi tạm đến khi nào/ Lận đận mải mê vòng danh lợi/ Xuôi tay nào có khác gì nhau?” Quê hương là một đề tài khá phổ biến trong thơ anh. Đó là nơi đầy ắp cả một khung trời kỷ niệm, trong tâm khảm với nỗi nhớ thương không bao giờ vơi cạn. Nếu Nguyễn Hoài Vũ nói về quê hương là: “Đất khách muôn trùng sao nhỏ hẹp/ Quê nhà một góc nhớ mênh mang” ở Nguyễn Bùi Vợi là: “Dẫu lưu lạc khắp chân trời góc bể/ Giấc mơ nào cũng bóng dáng quê hương”. Thì nỗi nhớ quê hương của tác giả Ngọc Trân cũng thiết tha không kém!  “Gởi cho anh chút Sài Gòn nắng ấm/Những vỉa hè góc phố nhỏ ngày xưa/Những xôn xao giờ tan học buổi trưa/ Để được ngắm áo dài bay trong gió.” (Gởi cho anh).
    Trên bước đường bôn ba ấy cho đến khi tóc đã ngả màu phai. Anh đã xa quê mấy chục năm có lẻ, nhưng nỗi nhớ quê vẫn đau đáu không nguôi: “Vẫn biết gởi thân nơi đất khách/ Trọn đời ta chẳng có mùa xuân/ Nhưng khi xuân đến trên quê mẹ/ Chợt nhớ xuân xưa nhớ thật gần.” (Cảm xuân 1). Anh cũng đã một đôi lần đến Huế và có lẽ cũng từng xao xuyến trước bóng hồng nào đó. Chẳng thế mà anh làm thơ về Huế rất hay, được diễn đạt trong thể thơ năm chữ. Thi ý ngọt ngào lãng mạn. “Xa rồi ngày tháng cũ/ Đóng quân ngoài cố đô/ Ta gặp em gái Huế/ Người xưa đâu bây giờ?” (Ngày tháng cũ). Những nơi anh có dịp đặt chân đến đều để lại dấu ấn trong thơ: “Đà Lạt ơi! Nhớ má hồng/ Nhớ ngày em bước theo chồng sang ngang/ Cho tim ta bổng vỡ tan/ Như trăm thác đổ theo hàng lệ rơi!” (Nhớ Đà Lạt)
Tôi đặc biệt rất thích những vần thơ anh dành cho Huế, nó phản ảnh góc nhìn tinh tế, hồn cốt của cố đô, dù anh chỉ là khách vãng lai nhưng lời thơ thân thương thể hiện trong thể thơ tám chữ hay thơ lục bát rất ngọt ngào. “Cố đô ơi! Lâu rồi không trở lại/ Nhớ thật nhiều nhưng biết nói sao đây/ Chốn xa xôi lòng vẫn vấn vương hoài/ Em gái Huế với áo dài tha thướt” (Thương về Huế xưa). Anh nhắc đến những địa danh, Vân Lâu, Nội thành và dáng Huế. Anh sử dụng phép tu từ, cảm thán trong thể thơ lục bát và có một chút tiếc nuối, làm cho câu thơ dễ chạm đến tâm tư người đọc. “Vân Lâu bến đợi còn không?/ Nội thành đường cũ vẫn mong dáng người/ Đâu ngờ giây phút chia phôi/ Là thôi ta đã nửa đời mất nhau!” (Nhớ Huế).
    Thơ anh còn là tiếng nói yêu hòa bình, ghét chiến tranh, được giải bày ở thể thơ tự do qua những câu thơ dài ngắn khác nhau rất ấn tượng.
 
Cái giá của chiến tranh:
Đốt tuổi xuân
giữa chiến trường
Nhiều thằng
nằm xuống bạn cùng cỏ cây!
Xứ người
năm tháng bơ vơ!
Tóc xanh
giờ đã bạc phơ mái đầu!
(Buồn)
 
Nghệ thuật thơ Ngọc Trân với bút pháp hiện thực và lãng mạn. Thi nhân ghi lại cảm xúc của mình với nhiều thể loại phong phú như: thơ tự do, thơ 5 chữ thơ 7 chữ, thơ 8 chữ hay lục bát truyền thống… Ngôn ngữ bình dị trong sáng, dễ hiểu, cách lập tứ, gieo vần và sử dụng ngôn từ khéo léo, kết hợp với các biện pháp tu từ phù hợp và biểu cảm. Anh lựa chọn thi liệu, thi ảnh giàu sức gợi. Anh đã viết nên những vần thơ đầy đầy rung cảm. Đọc thơ anh và suy ngẫm, thấy được vẻ đẹp từ những sáng tác của anh và bạn đọc có thể tìm thấy những câu thơ tâm đắc cho mình khi có cùng tâm trạng, như tìm được tiếng nói tri âm đồng cảm và sẻ chia. Tiếng lòng của thi nhân là những câu thơ mang nặng tình đời. Đó là những khúc tâm tình nhẹ nhàng đi vào lòng người để rồi đọng lại tình yêu đời, yêu cuộc sống.
    Người lính đi qua chiến tranh ngoài ý muốn. Ngọc Trân trải qua thăng trầm dâu bể, nếm đủ ngọt ngào và cay đắng của cuộc đời, đủ độ chín của sự trải nghiệm. Vì thế thơ anh thể hiện trong cảm hứng trữ tình biểu lộ một hồn thơ tràn đầy tình yêu quê hương, yêu người và yêu đời tha thiết. Nay anh đã bước vào tuổi thất thập, cầu chúc thi nhân yên bình, an lạc, hạnh phúc bên gia đình cùng con cháu để sống với niềm yêu thích thi ca và không ngừng sáng tác!

    Kết thúc bài viết, tôi cũng có bài thơ tặng anh:

 

GỬI NGƯỜI ANH

 

Gửi người anh biệt động quân

Tháng Ba gãy súng,… du xuân xứ cờ

Tưởng đâu qua bển làm thơ

Ai ngờ cày cuốc mệt phờ cả râu

Nhớ nhà rơi những giọt châu

Thương về cố quốc biết ngày nào nguôi

Mong rằng mát mái chèo xuôi

An bình sức khỏe, cuộc người thế thôi!

 

– Hoàng Thị Bích Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
WESTMINSTER (PTH/VB) – Buổi ra mắt sách “Những Người Ở Lại” của tác giả LU Thuy hôm Chủ Nhật 27/4/2025 tại Westminster cũng là dịp để tác giả tâm sự về lý do vì sao viết sách này, cũng là dịp để nghe anh Võ Văn Thiệu, một sinh viên du học tại Ý từ trước năm 1975, kể về không khí thân cộng của các sinh viên từ Miền Nam VN du học tại Pháp
Cuộc chiến Việt Nam đã khép lại từ nửa thế kỷ trước nhưng những hệ lụy vẫn còn ghi khắc trong đời sống, tâm trí và ký ức của nhiều thế hệ người Việt ở quê hương lẫn hải ngoại. Ký ức đau thương lẫn khát vọng xây dựng tương lai đã trở thành chủ đề trung tâm trong nhiều tác phẩm văn học, tuyển tập truyện ngắn "The Colors of April" do Quan Manh Ha và Cab Tran biên tập là một ví dụ điển hình.
Khi về già, bạn mắc bệnh mất trí nhớ, rồi mất phương hướng, sau đó mất ngôn ngữ. Nếu bạn sống thật lâu, như một ngọn núi, các chuẩn tắc đạo lý do con người đặt ra sẽ mất sau cùng. Và theo thứ tự như vậy. Trước cửa một tiệm cà phê gần khu vực tưởng niệm sự kiện 911, gần nền của tòa tháp đôi đổ sập, xuôi về phía hiệu sách cũ Strand ở Broadway, nơi tôi mua được một tập thơ của Gerald Stern, tôi gặp anh Siu Kpa, người Gia rai sáu mươi tuổi, và vợ anh. Anak Gia rai, con của Gia rai. Hay Giơ rai, Jarai, Jrarai, Chơ rai đều được, cả hai nói tiếng Việt, nhưng anh nói giỏi hơn. Thật ra chị là người Ba na, nghe phát âm như Bơ na, hay Bờ na, hay Bà nà, cũng là Ba na dưới núi, Ba na trên núi, Bơ Nâm, Bơ Môn. Cả hai đều mất trí nhớ nhưng theo hướng ngược chiều nhau.
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà. Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.
“Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” (nguyên bản ‘My Vietnam, Your Vietnam’) không chỉ là tự truyện của cha và con, kể lại hành trình đi tìm nguồn cội của tác giả, Christina Võ, mà còn là cách cô “hòa giải” – chữa lành vết thương giữa hai thế hệ – giữa cô và người cha, ông Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y VNCH, cũng là đồng tác giả.
Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có...
Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. Thơ chị không trừu tượng, không có những ý tưởng tổng quát, mà chứa đầy sự kiện, các chi tiết. Có một truyền thống văn hóa và tinh thần ở đó, trong những bài thơ có tính hiện đại và đương đại của chị. Thơ Bùi Mai Hạnh trực tiếp mô tả, trong khi hàm chứa những yếu tố triết lý lặng lẽ. Mối quan hệ của chị với người khác, trong tình bạn, trong tình yêu, là những mối quan hệ sâu đậm, mạnh, khó khăn. Tất cả các đề tài đều có thể có mặt: sự chống trả quyết liệt đối với số phận, sự đề kháng xã hội, sự sợ hãi và hèn yếu, tất cả có mặt trong thơ Hạnh.
"Bạt" của thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho tập thơ của ba người...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.