Hôm nay,  

Các nhà sản xuất quần áo, giày dép thấy khó từ bỏ chuỗi cung ứng của Trung Quốc

03/11/202300:00:00(Xem: 710)

Nhà máy tại Ninh Thuận

Nhà máy của Tập đoàn Sản xuất May mặc D’Sago tại Suối Đá, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam.


Cù Tuấn biên dịch phóng sự của Bloomberg. 

 
Từ Adidas AG đến Nike Inc, các nhà sản xuất quần áo và giày dép đã chuyển chuỗi cung ứng của họ ra khỏi Trung Quốc do căng thẳng địa chính trị và chi phí sản xuất thấp hơn.
 
Nhưng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng bất ổn và nhu cầu tiêu dùng suy yếu, nhiều công ty đã nhận ra rằng việc tìm kiếm các trung tâm sản xuất thay thế cũng đi kèm với những thách thức riêng. Một số thậm chí còn đóng cửa cơ sở sản xuất vừa mới thành lập để quay về Trung Quốc đại lục.
 
Laura Magill, người đứng đầu của thương hiệu giày dép Bata Group nổi tiếng toàn cầu, cho biết: “Hệ sinh thái trưởng thành đó, được thiết lập qua nhiều thập niên ở Trung Quốc, không chỉ đảm bảo mức giá cạnh tranh mà còn mang lại chất lượng ổn định khi sản xuất hàng loạt. Điều này khó có thể sao chép. Tôi không thể nghĩ ra nơi nào khác có thể làm được sản phẩm với chất lượng, số lượng và giá cả tốt như Trung Quốc”.
 
Các nhà sản xuất hàng may mặc và chủ nhà máy mà Bloomberg News đã nói chuyện cũng đồng tình với quan điểm của Magill.
 
Lin Feng, ở độ tuổi 50, là một doanh nhân sở hữu các nhà máy may mặc trong và xung quanh thành phố Quảng Châu phía nam Trung Quốc. Các nhà máy của ông chủ yếu sản xuất quần áo cho khách hàng Mỹ và châu Âu.
 
Vào năm 2020, khi Trung Quốc đóng cửa biên giới vì Covid, Lin Feng bắt đầu một dây chuyền sản xuất váy phụ nữ mới ở Hà Nội để “ném đá tìm đường”. Feng có được những công nhân hài lòng với mức lương chưa đến một nửa mức lương hàng tháng mà ông phải trả ở Quảng Châu.
 
Nhưng Feng sớm nhận ra mình bị sốc vì có rất ít đơn đặt hàng từ các khách hàng nước ngoài, vốn thận trọng với mức tồn kho khá lớn do dịch bệnh. Năm ngoái, Feng rời Việt Nam và chuyển trọng tâm sản xuất trở lại Quảng Châu.
 
Lin Feng nói: “Bây giờ không có ích gì khi nói về việc mở rộng hoặc chuyển dịch ra nước ngoài. Với nhu cầu giảm đi, việc người làm đòi lương thấp và được miễn thuế [tại Việt Nam] là vô nghĩa”.
Theo Hội đồng Dệt may Quốc gia Trung Quốc, việc rút lui này có nguy cơ làm mất đi một phần trong số 1,8 tỷ USD mà các nhà sản xuất Trung Quốc đã chi để chuyển sang các nước láng giềng châu Á như Việt Nam và Thái Lan. Một số quốc gia trong số này trong những năm qua đã chứng kiến xuất khẩu của họ sang các quốc gia phát triển đã tăng lên, gây bất lợi cho nền kinh tế lớn nhất châu Á.
 
Kee, giám đốc một nhà máy may mặc có trụ sở tại Quảng Đông, người yêu cầu chỉ nêu tên khi thảo luận về các vấn đề có thể nhạy cảm về mặt chính trị, cũng có một câu chuyện tương tự.
Hơn 20 năm, ông vận hành dây chuyền sản xuất quần jeans ở Campuchia. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, ông nhận thấy tỷ suất lợi nhuận ngày càng mỏng hơn khi mức lương tối thiểu tại Campuchia đã tăng lên.
 
Số tiền ông trả cho công nhân ở thành phố sản xuất Trung Sơn phía nam Trung Quốc hiện chỉ cao hơn 30% so với ở Campuchia. Cách đây 10 năm thì tỷ lệ chênh lệch này còn cao hơn. Trong khi đó, hiệu suất đầu ra tại các nhà máy ở Trung Quốc của ông tốt hơn khoảng 20% so với các nhà máy tại Campuchia, cộng thêm công nhân Trung Quốc có tay nghề cao hơn.
 
Kee cho biết, việc mở rộng sản xuất ở Đông Nam Á không phải là một “quyết định hợp lý”. “Tôi e rằng tình trạng kinh doanh chậm lại sẽ tiếp tục trong một hoặc hai năm tới.”
 
Quả thực, Trung Quốc đóng vai trò không thể thiếu trong chuỗi cung ứng hàng may mặc toàn cầu đến mức ngay cả những quốc gia đang đóng vai trò thay thế Trung Quốc cũng vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào quốc gia này.
 
Theo bà Dương Thị Ngọc Dung, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ngành may mặc Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào nguyên liệu Trung Quốc như nút, chỉ, nhãn mác và bao bì. Chỉ khoảng 30% đến 40% nguyên liệu được sản xuất trong nước Việt Nam.
 
“Khi bạn bắt đầu nói về sự chuyển động của chuỗi cung ứng hóa chất, chuỗi cung ứng nguyên liệu thô, bạn có kiến thức về máy trộn hóa chất ở các quốc gia đó không? Bạn có kiến thức ở các quốc gia trên về cách sản xuất hàng loạt không? Magill của công ty Bata đặt câu hỏi.
 
Rào cản ngôn ngữ và cú sốc văn hóa cũng là những trở ngại trong việc quản lý người lao động ở Đông Nam Á, một số người lao động này có ít kinh nghiệm hơn nhân viên ở Trung Quốc.
 
Michael Laskau, một doanh nhân ở Việt Nam, chuyên kết nối các nhà sản xuất quần áo địa phương với người mua nước ngoài, cho biết căng thẳng chính trị đã thúc đẩy một số khách hàng của ông chuyển sang Đông Nam Á – nhưng “nỗi sợ đi sang Trung Quốc làm việc và bị mắc kẹt ở đó” đã không xảy ra. Điều này đã khiến các đơn đặt hàng cho các nhà máy địa phương bị giảm đi, khiến một số nhà sản xuất hàng may mặc có nhà máy tại Đông Nam Á đang phải vật lộn để tồn tại.
 
Laskau cho biết hầu hết khách hàng đặt hàng với các nhà máy ở Việt Nam đang né tránh các hợp đồng dài hạn hơn do lo lắng về nhu cầu toàn cầu giảm sút. Ông cho biết, nếu không có những cam kết dài hạn hơn, nhiều công ty may mặc đang phải sống ngày qua ngày, thậm chí một số công ty còn có kế hoạch cắt giảm thời gian làm việc 4 ngày/tuần để cắt giảm chi phí.
 
Bà Dung Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết nước này vẫn đặt mục tiêu xuất khẩu hàng may mặc đạt 40 tỷ USD trong năm nay, trong bối cảnh một số khách hàng ở các quốc gia phát triển không muốn phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Bà cho biết, xuất khẩu hàng may mặc đạt 18,6 tỷ USD trong nửa đầu năm, chiếm 11,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
 
Tuy nhiên, các đơn đặt hàng mới chủ yếu dành cho việc gia công các công đoạn cuối cùng chứ không phải dành cho việc sản xuất đầy đủ. “Chi phí thành lập các nhà máy mới rất tốn kém và chính phủ Việt Nam không muốn có các nhà máy do nước ngoài đầu tư gây ô nhiễm thêm nữa”, bà Dung nói.
Ấn Độ là một nước được hưởng lợi khác từ sự chuyển dịch đa dạng hóa khỏi Trung Quốc của một số nhà sản xuất. Uniqlo của Fast Retailing Co cho biết họ sẽ tìm kiếm thêm đối tác sản xuất tại nước này trong khi Apple Inc cũng đang mở rộng quy mô sản xuất ở Ấn Độ, trong nỗ lực tìm cách đa dạng hóa sản xuất từ nhà máy trung tâm chính ở Trung Quốc đại lục.
 
Tuy nhiên, vẫn còn phải xem liệu có quốc gia nào khác – ngay cả một quốc gia có dân số tương đương Trung Quốc – có thể cạnh tranh với hệ sinh thái sản xuất khổng lồ của Trung Quốc hay không.
 
Một nhà máy may mặc mà Laskau hợp tác đã chi 80 triệu USD vào một nhà máy ở Việt Nam để sản xuất ra vải bằng các phương pháp thân thiện với môi trường hơn. Công ty đã đưa một phần chi phí của công nghệ mới vào giá vải - để rồi nhận thấy mình liên tục bị các đối thủ cạnh tranh báo giá rẻ hơn ở Trung Quốc đánh bại.
 
Laskau nói: “Vấn đề nan giải là ở đó. Khách hàng đều muốn vải sản xuất tại Việt Nam nhưng lại không muốn trả giá cho việc chuyển dịch sản xuất. Họ cứ muốn mọi thứ phải rẻ nhất có thể.”
 
Cù Tuấn biên dịch
 
Nguồn: https://www.facebook.com/tuan.cu.5
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Mỹ, khi người ta kết hôn, tài khoản của họ cũng thường được ‘quy về một mối’: phần lớn các cặp vợ chồng đều sẽ gửi toàn bộ thu nhập của mình vào một tài khoản chung. Trong những năm 1970 và 1980, việc tách biệt tài chánh có thể bị coi là điềm xấu cho một mối quan hệ. Nhưng ngày nay điều đó không còn đúng nữa. Tỷ lệ các cặp đôi, dù đã kết hôn hay chưa, giữ ít nhất một phần tài chánh riêng biệt đã tăng lên trong những thập niên gần đây, một phần vì người dân Hoa Kỳ có khuynh hướng kết hôn trễ hơn so với ngày xưa, và khi đó thì họ đã có thói quen tiêu xài của riêng mình.
Tập Cận Bình, bằng cách thắt chặt kiểm soát từ chính sách, truyền thông, đến quân đội, đã nâng quyền lực của mình tới mức chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ. Nhưng chính nhu cầu chứng tỏ quyền lực của Tập cũng chính là chiếc ”gậy ông đập lưng ông”. Nền kinh tế Trung Quốc khó có thể phục hồi như mong đợi sau đại dịch covid, ngành bất động sản khủng hoảng, các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi nước và tỷ lệ thanh niên thất nghiệp lên tới trên 20%. Các nhà phê bình năm nay đã sử dụng những thuật ngữ như đây là ”sự kết thúc của phép màu kinh tế Trung Quốc”. Vấn đề nan giải của Tập Cận Bình là ông dường như chỉ có một giải pháp duy nhất cho mọi vấn đề: tăng cường kiểm soát. Tập đã loại bỏ những cố vấn giỏi nhất vì tham nhũng hay có thể nói chính xác hơn là ông không tin tưởng họ.
Đô la điện tử (digital dollar), còn gọi là đô la kỹ thuật số, là một vấn đề tài chánh có tầm vóc thế giới, có khả năng thay đổi nền kinh tế Hoa Kỳ và toàn cầu. Vấn đề này được bàn thảo trong những năm qua: Liệu đã đến lúc Hoa Kỳ có thể thay đổi tiền giấy, tiền đồng bằng tiền điện tử? Nhưng những cuộc thảo luận không được nổi bật vì tình hình chính trị sôi nổi, chính quyền, báo chí vây quanh câu chuyện cựu tổng thống Trump bị truy tố khoảng trên 90 tội, trong lúc ông đang tranh cử cho chuyến trở về tòa Bạch Ốc năm 2024.Thay đổi hệ thống tiền tệ quốc gia sẽ tạo ra sự xáo trộn thói quen sử dụng và cách đánh giá mặt tiền của dân chúng. Nhiều câu hỏi sẽ phải giải quyết: Tại sao phải đổi tiền giấy thành tiền điện tử? (Có lẽ, ngày xưa, người ta cũng đặt câu hỏi tương tựa như vậy khi đổi từ tiền kim loại, tiền vàng thành tiền giấy. Dĩ nhiên, phải có lợi ích cho người tiêu dùng, có khả năng phát triển kinh tế quốc gia và đồng minh.)
Trần nợ là mức ấn định số tiền tối đa mà chính phủ có thể vay nợ. Quốc hội biểu quyết số nợ tối đa, tạo ra mức “Trần Nợ”, và chính phủ không được vay tiền nhiều hơn mức “Trần Nợ” này. Chính phủ Hoa Kỳ đã đụng đầu vào “trần nợ” từ tháng Giêng năm 2023, khi số nợ lên tới $31.4 ngàn tỷ đô la. Bộ Tài Chánh không được vay nữa, phải “du di” các món chưa dùng trong ngân sách để xài tạm vào các mục đã hết tiền. Nhưng từ đầu tháng Sáu, sẽ bắt buộc phải vay nợ thêm mới có tiền chi tiêu. Nếu không thanh toán được thì chính phủ bị “vỡ nợ”, chính phủ Mỹ sẽ không có tiền trả lãi và vốn từ các món nợ cũ, công khố phiếu Mỹ sẽ mất giá trị kéo theo những tai họa kinh tế khôn lường cho kinh tế nước Mỹ lẫn kinh tế thế giới.
Hoa Kỳ đang mắc nợ 31 ngàn tỷ MK. Hiện nay, mỗi năm Washington chi nhiều hơn thu khoảng 1 ngàn tỷ MK, buộc Bộ Tài Chánh phải đi vay để bù vào khoản chênh lệch. Điều đó có nghĩa là nợ công quốc gia vẫn đang tăng lên. Nếu không có thay đổi gì lớn, khoản nợ này rồi sẽ lớn hơn so với khi nó đạt đỉnh điểm vào cuối Thế Chiến II. Hầu hết số nợ là do tích lũy dần trong suốt 20 năm qua. Năm 2001, Hoa Kỳ thực ra có dư dả tiền mặt – Bộ Tài Chánh thu thuế được nhiều hơn khoản chi cho các dịch vụ của chính phủ.
Gia tăng giá năng lượng, chuỗi cung ứng xáo trộn, và mức cầu phục hồi sau đại dịch là những nguyên nhân gây ra lạm phát trong 2021-2022. Chính sách tiền tệ thâu hẹp chừng mực của Quỹ Dự Trữ Liên Bang đã giúp lạm phát tiếp tục giảm và nguy cơ trì trệ kinh tế mờ dần. Cố gắng giảm bớt thiếu hụt ngân sách quốc gia cũng đã góp phần đáng kể vào việc kiềm chế lạm phát.
Trần Nợ là con số nợ tối đa mà quốc hội Hoa Kỳ cho phép bên Hành Pháp đi vay. Hiện nay chính phủ Mỹ đang nợ tới $31 ngàn tỷ đô la, tích lũy từ trước đến giờ; đã đụng trần rồi. Trần Nợ mới xuất hiện từ thời Thế Chiến thứ nhất. Trước đó, mỗi lần chính phủ Mỹ muốn vay nợ thì phải xin quốc hội cho phép. Khi nước Mỹ lâm chiến, cần vay nợ liên tiếp, quốc hội bèn đặt ra lệ mới, cho phép vay thả cửa nhưng dưới một giới hạn, gọi là Trần Nợ. Sáng kiến này giải quyết một vấn đề trước mắt nhưng gây rắc rối trong hai chục năm qua giữa hành pháp và lập pháp.
Trong hơn ba năm - chính xác là 1,016 ngày - Trung Quốc đã đóng cửa với cả thế giới. Hầu hết sinh viên nước ngoài rời khỏi đất nước khi bắt đầu đại dịch. Khách du lịch đã ngừng đến tham quan. Các nhà khoa học Trung Quốc đã ngừng tham dự các hội nghị nước ngoài. Các giám đốc điều hành người nước ngoài bị cấm quay trở lại công việc kinh doanh của họ ở Trung Quốc. Vì vậy, khi Trung Quốc mở cửa biên giới vào ngày 8 tháng 1, từ bỏ những tàn tích cuối cùng của chính sách “không covid”, việc đổi mới tiếp xúc thương mại, trí tuệ và văn hóa sẽ có những hậu quả to lớn, mà phần nhiều là lành tính.
Hoa Kỳ sắp chi 490 tỷ đô la trong 10 năm để giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện chăm sóc sức khỏe và giảm thâm hụt liên bang. Tất cả số tiền đó đến từ đâu? Học giả về kinh tế Nirupama Rao của Trường Michigan giải thích cách mà đạo luật mới sẽ giúp tăng đủ nguồn thu để trả cho các khoản miễn thuế trong lĩnh vực năng lượng sạch, các khoản trợ cấp theo Đạo luật Affordable Care Act và các ưu đãi cho các nhà sản xuất sử dụng công nghệ sạch hơn, cũng như các sáng kiến khác nữa. Và rằng, với tên gọi của nó, liệu Đạo Luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act – IRC) có thực sự làm giảm lạm phát hay không?
Trong tháng 6, nền kinh tế Hoa Kỳ đã tạo thêm nhiều việc làm hơn dự kiến, báo hiệu thị trường lao động vẫn còn rất mạnh mẽ dù cho Quỹ Dự Trữ Liên Bang (FED) đã cố gắng làm cho nó suy yếu đi để kiềm chế lạm phát. Báo cáo việc làm ngày 8 tháng 7 năm 2022 cũng cho thấy tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức thấp nhất trong 70 năm là 3.6%. Liệu điều này có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ tránh được một cuộc suy thoái hay không? Christopher Decker, kinh tế gia tại Trường Nebraska Omaha, giải thích các con số và ý nghĩa của chúng đối với FED và nền kinh tế. Bài viết được đăng trên trang TheConversation.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.