Hôm nay,  

Nghiên Cứu Mới: Cách Một Số Gen Có Thể Gây Ra Chứng Tự Kỷ, Kinh Phong Và Tâm Thần Phân Liệt

13/10/202300:00:00(Xem: 1610)
 
tam than phan liet
Nghiên cứu mới tìm hiểu về mối quan hệ giữa một số gen và các bịnh rối loạn về phát triển não bộ như bịnh tự kỷ và tâm thần phân liệt. (Nguồn: pixabay.com)
 
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát triển một phương pháp mới để nghiên cứu cách các gen có thể gây ra bệnh tự kỷ và các bệnh rối loạn về phát triển não bộ (neurodevelopmental disorders) khác: phát triển các cấu trúc nhỏ tương tự như bộ não trong phòng thí nghiệm và điều chỉnh DNA của chúng.
 
Theo nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Nature, trong tương lai, những “tập hợp” (assembloid) này có thể sẽ giúp các nhà nghiên cứu phát triển các phương pháp điều trị nhắm mục tiêu cho hội chứng tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD), thiểu năng trí tuệ (intellectual disability), tâm thần phân liệt (schizophrenia) và kinh phong (epilepsy).
 
Bác sĩ Sergiu Pașca, giáo sư tâm thần học và khoa học hành vi tại Stanford University và là tác giả của nghiên cứu, cho biết: “Điều này thực sự thúc đẩy nỗ lực của chúng tôi để cố gắng tìm hiểu về sinh học của các bịnh rối loạn tâm thần.”
 
Kristen Brennand, giáo sư tâm thần học tại Yale, người không tham gia vào nghiên cứu, nhận xét rằng nghiên cứu cho thấy trong tương lai “chúng ta sẽ có khả năng dự đoán những biện pháp nào có thể nhắm mục tiêu để can thiệp” và ngăn ngừa những chứng bịnh rối loạn này.
 
Nghiên cứu mới được đưa ra sau nhiều thập niên các nhà nghiên cứu xác định hàng trăm gen có liên quan đến chứng tự kỷ và các chứng rối loạn về phát triển não bộ khác. Nhưng các khoa học gia vẫn chưa tìm hiểu được làm thế nào mà những vấn đề liên quan đến các gen này làm thay đổi bộ não.
 
Pașca nói: “Thách thức bây giờ là tìm hiểu xem chúng thực sự đang làm gì, làm thế nào mà sự gián đoạn trong các gen này lại gây ra bịnh. Và việc đó thực sự khó khăn.”
 
Vì nhiều lý do liên quan đến đạo đức, các khoa học gia không thể đơn giản cứ mang gen của ai đó ra để chỉnh sửa rồi tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra. Họ có thể thử nghiệm trên não động vật, nhưng động vật trong phòng thí nghiệm là các loài gặm nhấm và thực sự chúng sẽ chẳng phát triển bất cứ thứ gì giống như bịnh tự kỷ hoặc tâm thần phân liệt.
 
Vì vậy, Pașca và các khoa học gia trong nhóm đã thử một cách tiếp cận khác.
 
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện một loạt thí nghiệm sử dụng các khối tế bào não người cực nhỏ được gọi là các organoid não (Organoid là một phiên bản thu nhỏ và đơn giản hóa của một cơ quan được tạo ra trong ống nghiệm nhằm mô phỏng sự phức tạp về chức năng, cấu trúc và sinh học chính của cơ quan đó). Những khối này sẽ phát triển trong phòng thí nghiệm khoảng hơn một năm, chúng sẽ dần dần tổ chức các tế bào giống như cách mà một bộ não đang phát triển.
 
Sau đó, các nhà nghiên cứu sẽ cho một khối organoid tiếp xúc với các yếu tố tăng trưởng nhất định, khiến nó trở thành mô giống như những mô được tìm thấy ở các vùng não bao gồm vỏ não (cortex) và vùng hải mã (hippocampus).
 
Pașca cho biết: “Chúng tôi thực sự có thể tạo ra các bộ phận khác nhau của hệ thần kinh từ tế bào gốc trong phòng thí nghiệm.” Khi những bộ phận này được đặt vào chung một môi trường, chúng thậm chí sẽ hình thành các kết nối, giống như một bộ não thực sự. Thành quả này được gọi là assembloid.
 
Nhóm của Pașca nghĩ rằng họ có thể sử dụng các assembloid để nghiên cứu xem các gen gây rối loạn phát triển ảnh hưởng như thế nào đến các tế bào não đặc biệt gọi là trung gian thần kinh (interneurons); chúng được cho là có vai trò trong một số bịnh rối loạn tâm thần.
 
Trong quá trình mang thai và hai năm đầu đời, các interneurons phải hoàn thành một hành trình phi thường.
 
Pașca giải thích thêm: “Các tế bào interneurons được sinh ra ở các vùng sâu của não và sau đó chúng phải di chuyển đến tận phần vỏ não. Vậy nên có thể tưởng tượng rằng trong hành trình đó, có thể xảy ra rất nhiều vấn đề.”
 
Nhóm nghiên cứu đã mô phỏng lại hành trình của các tế bào interneurons bằng cách tạo ra các assembloid chứa hai loại organoid. Một organoid giống như khu vực sâu trong não gọi là subpallium, ‘cái nôi’ tạo ra hầu hết các tế bào interneurons. Organoid còn lại giống với phần vỏ não (cerebral cortex), được cho là ‘đích đến’ của các interneurons.
 
Sau đó, chúng được ghép lại với nhau, để các tế bào interneurons này di chuyển về phía vỏ não.
 
Thí nghiệm diễn ra đúng theo quá trình vốn sẽ xảy ra ở các assembloid chứa các organoid điển hình. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu sử dụng kỹ thuật chỉnh sửa gen CRISPR để thay đổi các organoid. Cách tiếp cận này cho phép họ nghiên cứu tác động của hơn 400 gen liên quan đến các bịnh rối loạn phát triển não bộ. Và nhóm phát hiện ra rằng 46 gen trong số đó có liên quan đến việc tạo ra các tế bào interneurons hoặc quá trình di chuyển của chúng. Loại bỏ một phần các gen đó thì các tế bào interneurons sẽ không còn đến được nơi chúng cần đến nữa.
 
Trong vỏ não, các tế bào interneurons đóng vai trò là tế bào thần kinh ức chế (inhibitory neurons), chúng hoạt động khá giống thắng xe. Các interneurons này có thể giải phóng một chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter) ra lệnh cho các tế bào thần kinh khác giảm bớt hoạt động lại.
 
Trong khi đó, các tế bào thần kinh kích thích (excitatory neurons) sẽ ra lệnh cho các tế bào khác hoạt động tích cực hơn.
 
Mạng lưới trong bộ não dựa vào sự cân bằng tinh tế giữa các tế bào thần kinh kích thích và ức chế. Nhiều kích thích quá thì có thể gây ra cơn co giật, động kinh. Ức chế quá thì có thể sẽ bị nhiều thông tin quan trọng hay chậm chạp.
 
Theo bác sĩ Guo-li Ming, giáo sư khoa học thần kinh tại Perelman School of Medicine của University of Pennsylvania, nghiên cứu này rất quan trọng vì nó cung cấp một cách để các khoa học gia tìm hiểu các tác động của nhiều gen cùng một lúc và xác định những gen ảnh hưởng đến một loại tế bào cụ thể hoặc chức năng của tế bào trong quá trình phát triển não bộ.
 
Nghiên cứu cũng chỉ ra rất rõ rằng các biến thể gen có thể dẫn đến chứng tự kỷ hoặc một số bịnh rối loạn phát triển não bộ khác qua việc làm xáo trộn các interneurons. Bác sĩ Ming giải thích: “Đó sẽ là thảm họa đối với một bộ não đang phát triển. Mạch điện bị sai thì tín hiệu sẽ sai, và rồi hoạt động của não cũng sẽ sai.”
 
Ming cho biết phòng thí nghiệm của bà sẽ sử dụng sự kết hợp giữa các assembloid và CRISPR trong nghiên cứu về bệnh tâm thần phân liệt của riêng họ.
 
Nghiên cứu của Pașca có thể giúp các khoa học gia về não đạt được những tiến bộ mà các nhà nghiên cứu ung thư đã đạt được trong vài thập niên qua.
 
Brennand nói: “Ba mươi năm trước, chúng ta có thể nghĩ rằng tất cả các bệnh ung thư đường ruột sẽ được điều trị theo cùng một cách, còn tất cả các bệnh ung thư phổi cũng sẽ có chung một cách điều trị. Bây giờ mọi thứ đã rõ ràng hơn rất nhiều.” Thay vì lựa chọn phương pháp điều trị theo vị trí của bệnh ung thư, các bác sĩ nghiên cứu gen của khối u để xác định liệu pháp nào có khả năng cho hiệu quả cao nhất. Và cách tiếp cận tương tự sẽ có thể giúp ích cho những người mắc chứng ASD, động kinh và tâm thần phân liệt.
 
Nguồn: “Brain cells, interrupted: How some genes may cause autism, epilepsy and schizophrenia,” được đăng trên trang NPR.org.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cũng giống như một cuốn từ điển vật lý, ‘cuốn từ điển’ trong đầu của chúng ta cũng chứa thông tin về các từ, bao gồm các chữ cái, âm thanh và ý nghĩa hoặc ngữ nghĩa của từ, cũng như thông tin về các thành phần câu cú và cách ghép các từ lại với nhau để tạo thành các câu đúng ngữ pháp. ‘Cuốn từ điển’ đó còn là một cuốn từ điển các từ ngữ đồng nghĩa. Nó có thể giúp chúng ta kết nối các từ ngữ và xem chúng giống nhau về ý nghĩa, âm thanh hoặc chính tả như thế nào.
Vừa mới mua một thùng raspberry hôm qua, mà hôm nay chúng bắt đầu trông hơi…mốc lên rồi. Mà mang bỏ hết thì tiếc đứt ruột – hay là chỉ lấy những trái bị mốc bỏ ra là được? Không ít người sẽ quyết định như vậy. Tưởng chừng như vô hại, nhưng nấm mốc trên thực phẩm có thể gây ra nhiều vấn đề, từ chứng khó tiêu cho đến những tình huống nghiêm trọng nhất như tổn thương thận hoặc thậm chí là ung thư.
Các cơ quan y tế Trung Quốc tuần qua cho biết họ chưa phát hiện bất kỳ mầm bệnh bất thường hoặc chủng vi-rút mới nào sau khi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu cung cấp thông tin về các đợt bùng phát bịnh hô hấp. WHO đã yêu cầu Trung Quốc cung cấp thêm thông tin chi tiết sau khi các tổ chức như Program for Monitoring Emerging Diseases (ProMED) báo cáo về các trường hợp viêm phổi chưa được chẩn đoán ở trẻ em ở miền bắc Trung Quốc.
Nghệ (turmeric) là một loài thực vật có hoa thuộc họ gừng. Từ lâu, nghệ đã được đánh giá cao trong nền y khoa cổ Ayurvedic ở Ấn Độ nhờ đặc tính chống viêm. Với ẩm thực Châu Á, nghệ cũng được ưa thích bởi hương vị và màu sắc của nó. Trong tiếng Hindi, nghệ được gọi là Haldi, có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là “màu vàng.” Nhưng đối với hàng triệu người Nam Á thường xuyên sử dụng nghệ, màu vàng rực rỡ của nghệ có thể khiến họ mất mạng.
Thời gian Mở Ghi Danh Medicare (Open Enrollment) đang diễn ra. Chúng tôi đã chọn một số câu hỏi về chủ đề này và muốn chia sẻ thông tin trong chuyên mục của tháng này. Chúng tôi đã thêm một câu hỏi để giải quyết rõ ràng hơn những lĩnh vực mà nhiều người còn nhầm lẫn về vắc xin ngừa COVID-19. Nếu quý vị có thêm câu hỏi về Medicare, Medicaid, thị trường bảo hiểm Y tế theo đạo luật chăm sóc giá cả phải chăng, phúc lợi hưu trí an sinh xã hội, thu nhập an sinh bổ sung hoặc tiêm chủng ngừa COVID/cúm, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay bằng 3 cách:
Mua thuốc bậy bạ không nguồn gốc là một trò xui rủi. Từ Xanax đến cocaine, thuốc hoặc thuốc giả được mua ở những nơi không phải cơ sở y tế có thể chứa liều lượng fentanyl nguy hiểm cho tính mạng. Các bác sĩ đã chứng kiến sự gia tăng sử dụng fentanyl không cố ý từ những người mua các loại thuốc theo toa thuộc nhóm opioid và các loại thuốc khác có chứa hoặc pha, trộn fentanyl. Người ta nhận thấy Fentanyl đã được đưa vào nguồn cung cấp thuốc heroin ở Massachusetts. Vào năm 2016, Giáo sư Kavita Babu và các đồng nghiệp phát hiện ra rằng những bệnh nhân đến khoa cấp cứu với báo cáo sử dụng quá liều heroin thường có fentanyl trong kết quả xét nghiệm mẫu thuốc của họ.
Hàng năm, trên khắp thế giới sẽ có hàng triệu người quyết tâm không động tới các loại đồ uống có cồn trong một tháng – truyền thống này bắt đầu từ Tháng Giêng Khô Ráo (Dry January) và sau này mở rộng thành nhiều nỗ lực tương tự, chẳng hạn như Tháng Mười Tỉnh Táo (Sober October). Cho dù đó là cả một chiến dịch đông đảo người tham gia, hay chỉ đơn giản là nỗ lực của một cá nhân để bớt ‘say xỉn’ lại, số lượng người tham gia ‘tháng kiêng rượu’ có vẻ như ngày càng nhiều.
Thường thì ai cũng sẽ nghĩ rằng tế bào sống tốt hơn tế bào chết. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng đúng: các tế bào thường hy sinh bản thân để giữ cho chúng ta khỏe mạnh. Chúng là những ‘anh hùng thầm lặng’ chẳng màng sinh-tử để bảo vệ chúng ta. Mặc dù cái chết có vẻ thụ động – là một kết thúc đáng tiếc xảy ra theo kiểu “muốn tránh cũng không được” – nhưng cái chết của các tế bào thường có chủ đích và mang tính chiến lược. Tại sao tế bào chết và chết như thế nào là chuyện khá phức tạp và có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe tổng thể của chúng ta.
Một người đàn ông 29 tuổi mắc HIV/AIDS giai đoạn cuối, đã qua đời 18 ngày sau khi được chẩn đoán mắc bệnh đậu khỉ. Trường hợp này nhấn mạnh tính dễ bị tổn thương của hệ thống miễn dịch bị suy giảm trước mối đe dọa mới nổi này, nhắc nhở về nguy cơ gia tăng đậu khỉ đối với một số nhóm dân cư. Riêng tại TPHCM, từ đầu năm đến nay, 20 ca mắc bệnh đậu khỉ được ghi nhận, trong đó có 18 bệnh nhân dương tính với HIV.
Trong những tuần gần đây, tin tức về việc vận động viên thể dục dụng cụ Mary Lou Retton phải vào bệnh viện vì một loại viêm phổi (pneumonia) hiếm gặp đã khiến nhiều người quan tâm và tò mò về căn bệnh này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.