Hôm nay,  

Tết Trung Thu rước đèn đi chơi...

26/09/202309:10:00(Xem: 2847)
Tùy bút

tet-trung-thu-2_1686592640
Bất chợt một đêm, vô tình mở một kênh YouTube, lắng nghe tiếng trống múa lân rộn ràng vang lên cùng giọng hát hồn nhiên trong trẻo, gợi nhớ một thời xa lơ, xa lắc: “Tết trung thu rước đèn đi chơi/ Em rước đèn đi khắp phố phường/ Lòng vui sướng với đèn trong tay/ Em múa ca trong ánh trăng rằm/ Đèn ông sao với đèn cá chép/ Đèn thiên nga với đèn bướm bướm/ Em rước đèn này đến cung trăng...” Lại nhìn ra ngoài cửa sổ, vầng trăng thượng tuần nhô cao, như một cái dấu “bấm móng tay” treo lơ lửng. Lại ngó vào tờ lịch bàn ngay chỗ làm việc. Ôi đã là tháng tám âm lịch rồi, nhưng chưa phải 14, 15...
    Lại suy nghĩ vẩn vơ, ở cái thành phố ngụ cư, cách xa quê nhà nửa vòng trái đất. Tết Trung Thu, trẻ em có cầm đèn, rồng rắn đi khắp nơi, vui chơi như trẻ em đất Việt? Chắc chắn là không! Mà ơ, cũng lạ... đã ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm” rồi, sao mình vẫn còn quan tâm, suy nghĩ đến “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi...” Phải chăng là mình đã lẩm cẩm?
    Không lẩm cẩm mà trí nhớ lại buộc phải “truy nguyên” nguồn gốc bài hát, với tên tuổi tác giả, mà biết bao thế hệ, giờ đã trở thành ông bà nội, ngoại, hay người “thiên cổ” mà thuở nào tuổi nhỏ, cứ đợi đến rằm tháng tám âm lịch, tức Tết Trung Thu, lại cùng nhau, kết bè, kết nhóm, nghêu ngao hát bài “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi” mà có đứa khi đó còn ngỗ nghịch, láu cá sửa lời là “Tết Trung Thu... đốt nhà đi chơi”, để bị cha mẹ rầy rà cho một trận!
    Bài hát có tên là “Rước đèn tháng tám” của nhạc sĩ Đức Quỳnh, sáng tác năm 1950, tức là cách nay cũng đã tròm trèm 73 năm, là một trong những bài hát thiếu nhi về Trung Thu hay nhất vẫn luôn được hát cho đến ngày hôm nay. Thuở đó, nhạc sĩ Đức Quỳnh đã có riêng một nhà xuất bản tên là Vân Thanh, và ông cũng là một cộng tác viên về âm nhạc cho Đài phát thanh Pháp Á ở Sài Gòn. Khi sáng tác bài hát “Rước đèn tháng tám”, không hiểu sao ông lại lấy tên là Vân Thanh, vì vậy, sau này có người nhầm lẫn đó là tác phẩm của nhạc sĩ “Văn Thanh”, một nhạc sĩ hiện nay còn sống ở đường Trần Huy Liệu, Phú Nhuận.
    Nhạc sĩ Vân Thanh (hay Đức Quỳnh), tên thật là Nguyễn Đức Quỳnh, sinh năm 1922 tại Hà Nội, bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 1947, với bài hát đầu tay là “Nhớ ai”. Ông mất năm 1994 tại Sài Gòn. Sáng tác âm nhạc của ông để lại không nhiều, khoảng chừng 20 ca khúc, tiêu biểu như: Rước Đèn Tháng 8, Thoi Tơ, Xuân Mới, Trả Lại Anh, Hát Đi Em, Ba Giờ Khuya, Nhớ Quê, Hỏi Em, Tiếng Chuông Chiều, Người Kỹ Nữ Với Cung Đàn… Ngoài ra ông còn làm chủ một phòng trà mang tên Đức Quỳnh tại góc đường Cao Thắng trước năm 1975.
    Trở lại ca khúc “Rước đèn tháng tám”, tuy là một bài hát quen thuộc, nổi tiếng nhất trong các ca khúc thiếu nhi về Trung Thu thời bấy giờ như bài “Thằng Cuội” của nhạc sĩ Lê Thương (sáng tác năm 1946), bài “Ông trăng xuống chơi” của nhạc sĩ Phạm Duy (sáng tác năm 1973), song lại ít người biết đến tác giả? Cái tên Vân Thanh hay Đức Quỳnh xem vẫn còn xa lạ trong lòng những người mê âm nhạc lúc đó. Có lẽ vì Đức Quỳnh sáng tác ít và có cuộc sống im lặng, trước những “đua chen” gay gắt của các trào lưu âm nhạc thời đó chăng, và báo chí cũng ít đề cập đến?

Nhạc sĩ Đức Quỳnh
Nhạc sĩ Đức Quỳnh.
    Còn nhớ, những năm xửa xưa, khi còn ở lứa tuổi nhi đồng và cả lứa tuổi thiếu niên, thanh niên, vẫn luôn nao nức rạo rực mỗi khi tháng tám về, cùng với nhịp trống lân, vang lên ở các con đường, góc phố, lũ học trò nhí chúng tôi đã được các thầy, cô thông báo chuẩn bị cho việc làm lồng đèn “dự thi” vào đêm rằm sắp tới. Đứa có tiền dành dụm, thì đập ống heo lấy tiền mua tre, trúc, giấy màu bóng kiếng làm lồng đèn. Đứa nhịn ăn, góp tiền chung, hùn để mua hay làm lồng đèn, tệ nhất cũng là cái lồng đèn xếp, hay lồng đèn ngôi sao, để có cái xách đi trong đêm rước đèn. Có đứa không đủ tiền mua giấy màu, lại ku-ky một mình, cũng ráng tìm giấy báo, hoặc xé giấy tập, dán cái lồng đèn... bánh ú để “vui với người ta”. Tiếp đó là tổ chức văn nghệ, hát ca, múa với hoạt cảnh rước đèn mà bài hát đồng ca chủ yếu là bài hát “Rước đèn tháng tám”, thường các bạn lớp lớn thì hát các bài như “Thằng Cuội” với những ca từ chân chất, nhưng cũng đầy mơ mộng như “Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một giấc mơ”, hay “bản lĩnh” hơn thì với bài hát theo kiểu đồng dao, vui nhộn, đầy những hình ảnh “cho, nhận” của Phạm Duy, như “Ông trăng xuống chơi học trò, thì học trò cho bút. Ông trăng xuống chơi ông Bụt, thì ông Bụt cho quà...” Song có lẽ, cái lung linh, giản dị đầy màu sắc của những ca từ “Đèn xanh lơ với đèn tím tím/ Đèn xanh xanh với đèn trắng trắng/ Trông ánh đèn rực rỡ muôn màu...” mới thực sự hấp dẫn đám con nít, lẫn choai choai, mới lớn, rồng rắn nhau rước đèn với đủ trò chơi tinh nghịch của tuổi thơ, vẫn luôn hằn sâu và nhớ mãi. Đó là chen lấn, chia quà, đến rách cả chiếc áo mẹ mới mua. Hay làm cháy cái lồng đèn con bướm, cưng như trứng mỏng, thậm chí làm khét cả mái tóc cô bạn nhỏ, làm rưng rưng những ngấn lệ trên đôi mắt đen, to tròn, dỗ dành mãi không thôi... thút thít...
    Rằm tháng tám, một thời, ai không nhớ những ngọn đèn, ngọn nến lung linh trong chiếc lồng đèn, con thỏ, ngôi sao và cả lung linh trong trái tim mình bên cạnh những người bạn thời niên thiếu? Và nhớ cả những câu hát “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi” của nhạc sĩ tài hoa Đức Quỳnh của một thời niên thiếu.

Trần Hoàng Vy



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.