Hôm nay,  

Giã biệt Nhạc sĩ Đan Thọ tác giả nhạc phẩm Chiều Tím

14/09/202320:17:00(Xem: 770)
Tưởng niệm

dan tho

Tin nhạc sĩ Đan Thọ tác giả nhạc phẩm Chiều Tím qua đời ngày 4-9-2023, tại Texas, Hoa Kỳ, hưởng thọ 99 tuổi, gợi nhớ kỷ niệm ca nhạc thời niên thiếu của tôi ở quê nhà.
    Thời học sinh tôi đàn và hát bản Tình Quê Hương của Đan Thọ phổ thơ Phan Lạc Tuyên. “Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới bóng dừa, nắng chiều lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ...”
    Lời thơ tả cảnh quê hương, có mẹ hiền, có người em gái, rất thi vị. Tài phổ nhạc của Đan Thọ rất khéo, vẫn giữ nguyên lời thơ năm chữ, nhưng câu nhạc có biến đổi nhịp điệu để bài hát không bị đơn điệu. Sự khác biệt giữa phổ nhạc bài thơ và hát bài thơ nằm ở chỗ này. Vì khi nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ, hoặc là lấy nguyên bài thơ, hoặc là lấy một đoạn thơ, hoặc là lấy ý thơ, hoặc là sửa vài chữ của thi sĩ cho hợp với nốt nhạc trầm bổng, hoặc là đặt thêm lời ca vào. Trong các trường hợp nêu trên, thì thi sĩ hài lòng nhất là nhạc sĩ giữ nguyên bài thơ. Nhưng cho dù có khéo léo đến mấy và tài năng của nhạc sĩ tuyệt diệu cỡ nào thì khi đưa nhạc vào bài thơ thì nét nhạc cũng phải bị gò bó theo lời thơ, nhất là các dấu sắc huyền hỏi ngã nặng của ngôn ngữ Việt Nam. Do đó bài hát mà Đan Thọ phổ thơ Phan Lạc Tuyên mang tên Tình Quê Hương, dù kỹ thuật phổ nhạc tinh tế nhưng giai điệu vẫn bị vướng vào bài thơ.
    Cho đến khi nhạc phẩm Chiều Tím ra đời thì khác hẳn. Trong ấn phẩm thì ghi là nhạc Đan Thọ, thơ Đinh Hùng; nhưng ở đây Đan Thọ cảm hứng viết nên một nhạc khúc không lời, sau đó nhờ thi sĩ Đinh Hùng đặt lời ca vào. Ở bản Tình Quê Hương thì thơ có trước rồi nhạc có sau, ở bản Chiều Tím thì nhạc có trước rồi lời thơ theo sau.
    Tôi không gọi lời ca mà gọi là lời thơ trong bản Chiều Tím, vì thi sĩ Đinh Hùng đã thổi hồn thơ bay bổng vào nhạc khúc. Vì chữ nghĩa thì phong phú với hàng trăm, hàng ngàn chữ; trong khi đó nhạc thì chỉ có 7 nốt cộng thêm thăng giảm thì tổng cộng là 12 nốt, cộng thêm nốt thấp nốt cao lặp lại 3 lần thì tối đa là 36 nốt. Do đó khi đặt lời ca sau khi có nhạc thì nguồn chữ đa dạng hơn là đặt nhạc sau khi có lời thơ.
    Nét nhạc của Đan Thọ bay bướm, có lẽ ông dùng vĩ cầm để sáng tác bản Chiều Tím cho nên khi nghe giai điệu bản này, tôi tưởng tượng ra cái đầu của ông nghiêng về cây đàn đặt trên vai, những ngón tay trái rung trên dây đàn và tay phải cầm “cây vĩ ” kéo nhịp nhàng để “dây vĩ “ cạ vào dây đàn mà tạo nên những âm thanh dịu dàng.
    Thi sĩ Đinh Hùng cũng biết nhạc và ông đã làm thơ trên những nốt nhạc của Đan Thọ. Khi nghe lời ca của bản Chiều Tím đã thấy hay, nhưng khi tôi ngồi chép lại những lời ca đó, tôi gọi là lời thơ, và làm cho người chép rung động, tưởng như chính mình sáng tạo ra những chữ đó.
    Xin chép lại lời ca  bản Chiều Tím:
    Lời 1: “Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài, sầu trên phím đàn, tình vương không gian, mây bay quan san có hay. Đàn nhớ từng cánh hoa bay, vầng trăng viễn hoài, màu xanh ước thề, dòng sông trôi đi, lúc chia tay còn nhớ chăng. Ai nhớ mắt xanh năm nào, chiều thu soi bóng, nắng chưa phai màu, kề hai mái đầu nhìn mây tím nhớ nhau. Chiều tím chiều nhớ thương ai, còn thương nhớ hoài, đàn ơi nhắn giùm người đi phương nao, nếp chinh bào biếc ánh sao.
    Lời 2: “Từ đấy đàn nhớ thanh âm chùng dây vĩ cầm, người xa vắng rồi chiều sang em ơi, thương ai hoa rơi lá rơi. Người ấy lòng hướng trăng sao, hồn say chiến bào, tình trong phiến đàn mùi hương chưa phai, ý giao hoan người nhớ chăng. Mây gió bốn phương giăng hàng, mùa thu thêu áo nét hoa mơ màng, và em với chàng kề vai áo vấn vương. Chiều hỡi đàn nhớ mong nhau, tình thương bắc cầu, người đi hướng nào, tìm trong chiêm bao, tóc bay dài gió viễn khơi.
    Cần nên nói rằng lời ca của thi sĩ Đinh Hùng đặt cho giai điệu của nhạc sĩ Đan Thọ, để nhạc và lời trở thành ca khúc Chiều Tím, là một kiểu mẫu tuyệt diệu để cho người sau học hỏi, bắt chước khi muốn đặt lời ca cho một nhạc phẩm sao cho hay.
    Với nét nhạc hay, lời ca (lời thơ) hay làm cho bản Chiều Tím trở thành bất tử trong vườn hoa ca nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ Đan Thọ dù ra đi, dù sáng tác không nhiều nhưng chỉ riêng một bản Chiều Tím cũng đủ cho giới thưởng ngoạn nhớ tới ông nhiều. Và thi sĩ Đinh Hùng cũng là một người đặt lời ca hoa mộng để hậu thế ngưỡng mộ.
    Thời tôi còn ở Sài Gòn, khoảng năm 1976, bạn tôi Phạm Kiên Hoàng thường ôm cây ghi ta độc tấu bản Chiều Tím. Bạn soạn đơn giản với các hợp âm Mi trưởng, La trưởng, Đô thăng thứ, Si bảy với các thế bấm không cầu kỳ trên cần đàn. Nhưng đây cũng là điểm đặc biệt vì những người biết đàn Tây Ban Cầm đều có thể tập được bản Chiều Tím khi nghe và xem người chơi bản này.
    Tôi bắt chước tập bản Chiều Tím và mang nó theo khi vượt biển sang Canada năm 1979, rồi qua Hoa Kỳ. Thỉnh thoảng có những đêm buồn, ngồi ôm ghi ta độc tấu bản này làm cho bằng hữu thích thú. Tôi không nhớ hết những chi tiết cầu kỳ, nhưng vẫn giữ được cái hồn của bản độc tấu. Điều cần nhất là tiếng đàn phải ngọt ngào.
    Các bạn đã từng nghe nhiều ca sĩ hát bản Chiều Tím, nhiều ban nhạc hòa tấu bản này. Nhưng tôi tin rằng đây là lần đầu bạn nghe độc tấu Tây Ban Cầm bản Chiều Tím.
    Nghe tin nhạc sĩ Đan Thọ qua đời, lòng tôi bồi hồi, đem đàn ra tập lại bản Chiều Tím và thu hình đưa lên Youtube để bằng hữu thưởng thức; để ghi lại rằng một thời mình đã yêu nhạc Classic Guitar, Tây ban cầm cổ điển, một thời tuổi trẻ yêu đàn, yêu ca nhạc thơ văn. Hôm nay tuổi đã bảy mươi, ngón tay đã cứng và mau mỏi nhưng cũng ráng. Cảm hứng từ bản Chiều Tím mà viết câu ca: “Người đi vỡ Tây Ban Cầm. Từ đây đời thiếu thanh âm.”
 
Trần Chí Phúc
 
Mời nghe và xem độc tấu Tây Ban Cầm bản Chiều Tím để tưởng nhớ nhạc sĩ Đan Thọ:

 

https://www.youtube.com/watch?v=ss_RR-C_Gwo

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sáng nay trên trang Facebook, ca sĩ Bảo Yến báo tin nhạc sĩ Quốc Dũng vừa ra đi ngày 24-9-2023. Khoảng mười mấy năm trước Quốc Dũng có sang Hoa Kỳ và ghé ở nhà người quen ở San Jose. Tôi chở Quốc Dũng ra quán cà phê Dạ Thảo, ngồi nghe anh kể chuyện văn nghệ. Anh nói rằng lần này sang Mỹ và sẽ xuống Quận Cam để gặp một nhạc sĩ nổi tiếng mà Quốc Dũng ngưỡng mộ. Bạn có biết người nhạc sĩ đó là ai không- tôi thoáng suy nghĩ- thì ra đó là nhạc sĩ Lam Phương!
Đối với nhiều người Việt tị nạn sinh sống tại hải ngoại, giữ gìn và quảng bá nền văn hóa nghệ thuật của cộng đồng người Việt tị nạn là một sứ mạng tinh thần quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì các hoạt động văn học nghệ thuật của người Việt hải ngoại thường không sinh lợi, chưa kể công sức tiền của bỏ vào xiết kể. Những người làm văn hóa cần phải có tâm, có sự kiên trì, cả sự gan lì để thực hiện sứ mệnh của mình. Duy trì được những sự kiện văn hóa tại hải ngoại kéo dài đến 20 năm có thể được xem là một thành tích đáng kể. Và năm nay, Đại Hội Liên Hoan Phim Ảnh Việt Nam Quốc Tế “Viet Film Fest” bước vào mốc 20 năm, đánh dấu một đoạn đường dài phục vụ cộng đồng. Ngoài việc hỗ trợ và quảng bá những tác phẩm của các đạo diễn gốc Việt trên thế giới, Viet Film Fest quảng bá phim mang đề tài về con người hoặc văn hóa Việt Nam do những đạo diễn không phải gốc Việt thực hiện.
Hơn ba năm sau khi bị đánh cắp ở Laren, bức tranh ‘The Parsonage garden at Nuenen in Spring’ (tạm dịch: Vườn Nhà Mục Sư ở Nuenen vào Xuân) của Van Gogh đã được tìm lại. Việc trả lại được thực hiện bởi thám tử tư nhân người Hà Lan Arthur Brand.
Khi nói về nền âm nhạc Việt Nam thời hiện đại, không thể không nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy. Đã có quá nhiều mỹ từ mà giới yêu nhạc Việt Nam sử dụng khi nói về ông: người nhạc sĩ của thế kỷ, phù thủy âm nhạc, cây đại thụ của ca khúc Việt Nam… Cũng vì thế, viết và nói về nhạc sĩ Phạm Duy là một điều khó, vì đã có quá nhiều người phân tích từ đủ mọi góc cạnh. Từ những nhà phê bình âm nhạc, cho đến bạn bè của ông là những văn nghệ sĩ, hay những người mến mộ. Họ viết về cuộc đời nổi trôi theo vận nước Việt Nam của Phạm Duy, về giai điệu và ca từ Phạm Duy, về khả năng sáng tác bền bỉ của người nhạc sĩ thiên tài…
Viết về nhạc Phạm Duy mà không nói tới tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh là một thiếu sót không nhỏ. Như ta bước hụt một nấc thang. Tiếng hát của ca sĩ là chỉnh lại thăng bằng giữa nhạc và lời, khi niềm tĩnh lặng cần thiết một biến đổi. Những lặng yên nốt nhạc của nhạc sĩ trên mặt giấy, bỗng rảo bước đi, qua lời ca sĩ. Nhạc của Phạm Duy là nhiên liệu. Thái Thanh đốt lên thành ngọn. Ngọn rực rỡ bình minh. Ngọn hắt hiu của cây đèn lạp đêm khuya. Lửa ấy, lời ca ấy, không chỉ để ta nghe, thổ lộ những tâm tình, mà, còn để ta Nhìn, những bức minh họa. Cánh diều, con đê, bên ánh đèn mẹ ngồi khâu áo, đèo núi cao đoàn quân đi qua, bờ nước rộng con thuyền lên đường viễn xứ, chiều làng quê anh thương binh trở lại, và nắng tươi màu, áo ai phận mỏng, và thế gian giao mùa chinh chiến, và âm dương trở mình trong tiếng chày kinh. Cõi nhân ảnh mờ mờ, ảo ảo, hay tục lụy rõ soi ấy, một kiếp đời, ai cũng từng trải.
Nhạc sĩ Đan Thọ qua đời ngày 4 tháng Chín năm 2023, thành phố Houston, Texas, hưởng đại thọ 99 tuổi. An giấc nghìn thu ngày 18 tháng Chín, tại Nhà Quàn Vĩnh Cửu (Chapel of Eternal Peace at Forest Park), Houston, Texas. Với tuổi ta, nhạc sĩ được bách niên (100 tuổi) tuổi hạc đại thượng thọ trên cõi trần...
Vào giữa thập niên 1980s, phổ biến trong nước Triệu Đóa Hoa Hồng, tuy là bản nhạc trữ tình với mối tình dang dở nhưng lời Việt, nhạc Liên Xô nên tôi bị “dị ứng” nên chẳng để ý, dù sau nầy với ca sĩ hải ngoại…
Chúng ta không biết phải dịch chữ “immersive art” như thế nào. Khái niệm này chỉ mới xuất hiện vài năm nay, mặc dù đã xuất hiện, phần nào, trong các loại hình nghệ thuật khác, từ cả nhiều thế kỷ trước. Hình như triển lãm “immersive art” lần đầu tiên ở Los Angeles và Las Vegas là đầu năm 2022, với tranh Van Gogh. Phòng triển lảm sử dụng hình ảnh, âm thanh, không gian, sự chuyển động của màu sắc để làm cho bạn, người khán giả, trở thành một người đang tắm gội trong không gian nghệ thuật của họa sĩ Van Gogh (1853-1890). Tại sao chọn Van Gogh để triển lãm đầu tiên cũng chưa rõ, có lẽ vì tranh họa sĩ này sống động, dữ dội hơn nhiều họa sĩ khác, hấp dẫn hơn với dân Nam California. Có thể dịch chữ “immersive art” là hội họa “trải nghiệm hòa nhập” hay “trải nghiệm nhập vai” – bởi vì, khán giả tự thấy mình trở thành một phần của tác phầm đang chuyển động giữa thế giới màu sắc của họa sĩ.
“Đẹp là gì?” Người đầu tiên chính thức đặt ra câu hỏi căn bản này có lẽ là Socrates (469-399 TCN), và chính ông đã trả lời: “Đẹp là cái thích thú do tai nghe mắt thấy”. Plato (427—347 TCN) cho rằng “Vẻ đẹp là hình ảnh nhất quán và không thể thay đổi của những điều tốt nhất, tinh tế nhất.” Ông cũng là người đầu tiên đưa ra một nền tảng siêu hình về cái đẹp: không dừng lại ở cái đẹp hữu hình, mà đi tìm những giá trị siêu cao vô hình. Theo Immanuel Kant (1724-1804), vẻ đẹp là sự hài hòa giữa hình dáng và nội dung, là thứ khiến chúng ta cảm nhận sự tinh tế và thỏa mãn. Kant cho rằng cái đẹp gồm hai cảm nhận: cảm quan về sự cao cả và cảm quan về thẩm mỹ. Trong cả hai trường hợp, sự xúc động đều gây thích thú nhưng theo hai cách khác nhau: ý nghĩa cao cả khiến trái tim cảm động, còn mỹ thuật làm say mê trí óc của cặp mắt. Với tôn giáo thì vẻ đẹp còn liên quan đến niềm tin.
Ales Pushkin là một họa sĩ độc đáo. Anh là người đã yêu đất nước Belarus nồng nàn, tới mức nhiều lần đứng ra biểu tình đòi cho Belarus gia nhập NATO khi nhìn thấy Nga chiếm vùng Crimea của Ukraine, đã vẽ nhiều họa phẩm chống Tổng Thống Nga Vladimir Putin, bất kể có những cuộc biểu tình chỉ có đơn độc một mình anh ra phố đứng. Anh cũng là người yêu thương Ky tô giáo nồng nàn, đã thực hiện những tác phẩm trang trí nhà thờ, và sau khi nhiều lần vào tù, ra khám anh tâm sự với bạn hữu rằng đời anh chỉ sợ duy nhất có Chúa Trời. Bây giờ, Ales Pushkin (1965 - 2023) đã từ trần trong nhà tù Belarus. Bản tin hôm 12/7/2023 của AP ghi rằng, Ales Pushkin, một họa sĩ và là một nhà hoạt động chính trị người Belarus, người thường xuyên chỉ trích vị Tổng thống độc tài Alexander Lukashenko, đã chết trong tù hôm thứ Ba 11/7/2023 khi đang thọ án 5 năm.
Nhạc sĩ Trần Lê Việt, tác giả của bản nhạc tù quen thuộc, được mọi người nhắc đến, nghe lại vào các dịp kỷ niệm 30 tháng 4 hằng năm: Tháng Tư Đen (hay còn được nhớ nhất với cái tên Tháng Tư 29 ngày 31 đêm) trong dịp sinh nhật thứ 72 đã “được” ngồi xe lăn đi chầm chậm về phía cuối đường (đời). Chàng lãng tử với cây đàn nay không còn có thể “lãng tử” được nữa, dù cây đàn vẫn còn đó, vẫn còn là niềm vui của mỗi ngày, mỗi phút, mỗi giây chàng không phải đánh vật với bệnh tật...
Câu chuyện bắt đầu, một người kể: “Sở dĩ con kên kên sói đầu vì nó ăn mít. Nó đút đầu vào ruột trái mít đục khoét. Mủ mít dính chặt lông. Khi rút đầu ra, lông dính lại. Đầu trọc lóc.” Người thứ hai lên tiếng: “Nói vô lý. Kên kên ăn xác chết, ăn đồ hôi thúi. Mít có mùi thơm. Kên kên không ăn đồ thơm.” Người thứ nhất trả lời: “Nói có lý nhưng xét ra vô lý. Kên kên không ăn mít thường nhưng ăn Sầu riêng. Mít Sầu riêng hôi lắm.” “Nói vô lý. Sầu riêng thơm kiểu khác. Cả triệu người ăn. Cả triệu người ghiền. Điên hay sao mà ăn đồ hôi.” “Bà thấy thơm nhưng tui thấy hôi. Quyền tự do mà. Cả triệu người không ăn Sầu riêng. Cả triệu người thấy Sầu riêng hôi.” “Nói tào lao. Hoa thì thơm. Phân thì hôi. Ai có thể ngửi thấy hầm lù thơm?” “Có thể hôi thúi, nhưng ở đó lâu ngày, quen đi. Thúi cũng như thơm. Giống những người ở xung quanh Kinh Nước Đen.”
CTA BACK TO SCHOOL BANNER
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.