Hôm nay,  

Đọc Thơ Tùy Anh: Quê Hương, Mẹ, Tình Bạn, Tình Yêu và Đạo Pháp

06/09/202309:26:00(Xem: 2532)

bia tap tho Tuy Anh

 

“Còn một chút quê hương trong màu nắng

Thêm mặn mà trên từng đợt phù sa!”

 

Đó là hai câu thơ trong bài “Tháng Tư Ngóng Về Phương Đông” trong tập thơ “Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian” của nhà thơ Tùy Anh mà tôi may mắn đọc được.

Đó là hai câu thơ mà chỉ cần đọc qua một lần tôi đã không thể quên được, bởi vì nó quá nên thơ và tuyệt vời khi diễn tả tâm trạng nhớ quê hương của nhà thơ lưu vong Tùy Anh dù thời gian có là bao lâu, dù không gian có là nơi nào. Đơn giản chỉ bằng hai câu thơ, nhà thơ Tùy Anh đã có thể vẽ nên bức tranh miêu tả tâm cảnh của một người nhớ quê hương da diếc theo tháng ngày lưu vong và tia nắng hy vọng vẫn rực rỡ!

Nhà thơ Tùy Anh còn có bút hiệu khác là Phù Vân, một bút hiệu rất thơ mộng mà mỗi khi nhắc tới tôi không thể không liên tưởng đến khung trời lãng mạn với vầng mây trôi bồng bềnh, thong dong, chợt có chợt không. Hoặc tôi lại nghĩ tới uy danh của một vị thiền sư sống ẩn dật trên núi Yên Tử là Quốc Sư Phù Vân, người đã từng dạy cho Vua Trần Thái Tông câu Thiền ngữ thâm thúy, “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm” (Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm). Có lẽ nhà thơ Tùy Anh khi lấy bút hiệu khác là Phù Vân đã nghĩ tới vị thiền sư và câu Thiền ngữ độc đáo này. Chẳng thế mà trong tập thơ “Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian” bàng bạc Thiền vị và Pháp vị. Tôi bắt gặp ý nghĩ này trong bài thơ “Trở Giấc Đêm Xuân,” mà trong đó nhà thơ Tùy Anh đã tự giới thiệu mình.

“…em nhìn xem trên khung trời xanh biếc

đám phù vân nào vẫn mãi lang thang?

đó là anh với ước vọng vô vàn

thênh thang được đặt chân lên đất tổ!”

Tôi chưa một lần gặp mặt nhà thơ Tùy Anh ngoài đời, nhưng tôi đã biết anh từ lâu vì những hoạt động và đóng góp của anh cho văn hóa và văn học Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam ở xứ người trong nhiều thập niên qua, đặc biệt thông qua tờ báo Viên Giác do Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chủ Nhiệm và anh làm Chủ Bút. Vài năm gần đây, qua những sinh hoạt trên Zoom của Hội Đồng Hoằng Pháp thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tôi đã nhìn thấy anh qua màn ảnh máy điện toán.

Tập thơ được đặt tên là “Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian.” Tên của tập thơ đã cho người đọc hiểu được phần nào tâm cảnh của nhà thơ và ý hướng triết lý ẩn chứa bên trong tập thơ này. Mấy chữ “dâu bể” và “thời gian,” cho người đọc liên tưởng đến bản chất vô thường biến dịch không dừng trụ của cuộc đời, của tất cả các pháp trên thế gian, bao gồm thời gian và không gian. Nhưng, mấy chữ “cũng đành,” gợi mở cho người đọc hiểu được thái độ của nhà thơ: tùy duyên đối với vạn cảnh, hay chấp nhận điều không thể trốn chạy vì đó là quy luật thiên thu của vũ trụ. Ngay nơi tựa đề của tập thơ cũng cho người đọc nhận ra một chút manh mối rằng tác giả của tập thơ phải là người từng trải bao kinh nghiệm cuộc đời. Bài thơ chủ đề “Thôi Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian” cho người đọc cảm nhận được điều đó.

“Xin mời bạn, rượu nồng quên ngày tháng

Nhớ làm chi, bèo bọt chuyện mây trôi!

Ly chưa cạn mà nghe đời đã cạn

Ai đong đầy cho thế sự đầy vơi?

Hãy đón Xuân như đón niềm mong đợi

Buổi giao mùa còn đọng… chút men say.

Dù năm mới ngọt từng lời mời gọi

Cũng chỉ là gió thoảng với mây bay!

 

Nào ai hiểu Xuân như người tình phụ

Mỗi lần Xuân, mỗi quay quắt bất an!

Nhưng ta hiểu đã làm thân lữ thứ

Thôi cũng đành dâu bể với thời gian!”

Tập thơ “Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian” của nhà thơ Tùy Anh chuyên chở tâm trạng nhớ quê hương của một người tị nạn sống lưu vong và trên quê hương đó còn có bóng dáng không phai mờ của người Mẹ hiền của nhà thơ. Còn nữa, tập thơ còn chuyển tải đến người đọc chân tình bằng hữu, tình yêu ngọt ngào và đạo lý giải thoát của Nhà Phật.

Từ khi rời bỏ đất nước ra đi để thoát cảnh đọa đày trong nhà tù nhỏ và nhà tù lớn ở Việt Nam và đi tìm cuộc sống tự do nơi xứ lạ quê người, quê hương đối với nhà thơ Tùy Anh dù không còn là mảnh đất nâng đỡ từng bước chân lưu lạc trong cuộc sống tha hương vẫn là một thứ hình ảnh và tình cảm đã thấm sâu vào huyết quản mà lúc nào anh cũng canh cánh bên lòng dù đã mấy mươi năm cách xa biền biệt.   

“Thôi đành vậy, ba mươi năm viễn xứ

Như mây trời phiêu bạt tận mười phương!

Vẫn hun hút trên dặm ngàn lữ thứ

Ôm xót xa bao nỗi nhớ niềm thương.” (Ba Mươi Năm Viễn Xứ)

Nỗi nhớ quê hương đã gây cho nhà thơ Tùy Anh niềm cảm thông sâu sắc tâm trạng của nhà thơ Thế Lữ trong bài thơ “Nhớ Rừng” của thời Tiền Chiến xa xưa và tạo cảm hứng cho anh họa lại bài thơ đó để thổ lộ tâm sự của mình:



“Ta đeo đẳng cả trăm thương ngàn nhớ

Thuở lưu đày vương vấn chuyện ngày xưa

Tuổi trẻ mộng mơ, biển cả, rừng già

Khi tha thiết suối nguồn, khi đậm tình sông núi

Khi cuồng nhiệt cất tiếng ca vang dội…”

Tâm trạng nhớ quê hương của nhà thơ Tùy Anh càng thêm se sắt vào mỗi độ Tháng Tư về. Tháng Tư là tháng đánh dấu biến cố đau thương nhất của người dân Miền Nam Việt Nam khi Cộng Sản Miền Bắc xua quân xâm chiếm toàn đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Bài thơ “Tháng Tư Ngóng Về Phương Đông” là tiếng kêu thống thiết của loài chim “quốc”:

“Mỗi buổi sáng khi mặt trời thức giấc

Nghe tiếng chim tha thiết gọi bình minh

Ngóng về phương đông, lòng thêm quặn thắt

Cố hương ơi! sao vẫn mãi điêu linh?”

Trên cố hương ấy, còn có người Mẹ già mà nhà thơ Tùy Anh vẫn hằng nhớ thương. Ở trên thế gian này không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng tình Mẹ.

“Trên trần thế,

có nơi nào đẹp đẽ

bằng hình ảnh Mẹ trong tâm!

Ở nhân gian

có kỳ quan nào hùng vĩ

bằng thần tượng Mẹ trong đời!” (Rồi Một Ngày Nào, Mẹ Ơi…)

Người con nhờ tình thương của Mẹ mà khôn lớn và trưởng thành. Cho nên, dù người con có một trăm tuổi vẫn nhớ “lời mẹ ru” từ thuở ấu thơ, như nhà thơ Tùy Anh kể trong bài thơ “Mẹ Trong Nỗi Nhớ Khôn Nguôi.”

“Nghìn năm sông nước đầy vơi

Con, trăm năm vẫn nhớ lời mẹ ru

Vòng tay mẹ ủ hương nhu

Bao nhiêu âu yếm cũng từ đấy thôi.”

Dường như tình yêu của nhà thơ Tùy Anh dù không thiếu hương vị lãng mạn, ngọt ngào, nhưng lại được tô thắm một chút sắc màu mơ màng và lãng đãng như ánh trăng lung linh hàng cau ngoài dậu. Bài thơ “Em và Trăng” đã nói lên điều này. 

“Hôm em về quê cũ

Trăng vằng vặc dõi theo

Em thấm đời lữ thứ

Ngủ quên trong kinh chiều.

 

Anh trầm trong cõi tịnh

Trăng lung linh hàng cau

Mơ màng giấc thiền định

Đành bỏ quên đời nhau!”

Phải chăng vì nhà thơ “ngủ quên trong kinh chiều” mà bỏ quên tình yêu của mình? Chắc là không phải, bởi vì bài thơ “Lần Nữa Cảm Ơn Em” đã cho người đọc thấy.

“Viết cho em giữa mùa trăng lời yêu không nói hết

Lời thiết tha bàng bạc, dịu ngọt cõi thanh yên

Đó là nhân ta gieo trồng từ vô lượng kiếp

Nay là quả ta gặt hái theo từng độ nhân duyên.”

Tình bạn trong nhà thơ Tùy Anh cũng rất mực đậm đà, chân thật. Khi tiễn biệt người “bạn hiền” Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa, anh đã không giấu được cảm xúc trống vắng khi mất bạn.

“Từ giã nhé, cuộc đời đầy huyễn mộng

Đời thư sinh, màu áo trắng hoang sơ

Nghe trong nắng có tiếng cười lồng lộng

Mà âm vang nghe lạnh cả hư vô…”

Điểm đặc biệt và nổi bật trong tập thơ “Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian” của nhà thơ Tùy Anh là giáo nghĩa của Đạo Phật bàng bạc khắp nơi cho dù là nỗi nhớ quê hương, tình Mẹ, tình bạn hay tình yêu. Tư tưởng Phật học chừng như đã thấm sâu trong từng nhịp thở con tim và trong từng niệm tưởng của nhà thơ Tùy Anh làm cho nó tuôn chảy ra theo lời thơ một cách tự nhiên không gắng gượng. Bài thơ “Qua Ngõ Phù Vân 2” là một thí dụ điển hình.

“Này em, thế sự đổi thay

Trăm sông ngàn suối nào quay về nguồn?

Bâng khuâng nhìn giọt mưa tuôn

Ngẩn ngơ cảm những giọt buồn thế nhân!

 

Em về qua ngõ phù vân

Buồn vui thôi cũng chỉ ngần ấy thôi!

Vinh hoa để lại cho đời

Thị phi cũng để cho người thị phi!

 

Thương làm chi, ghét làm chi

Hơn thua thêm nặng chu kỳ hóa thân!

Em đi vào cuộc hồng trần

Anh về lãng đãng mấy tầng mây xa”

Nhờ thấm nhuận giáo lý Nhà Phật, nhà thơ Tùy Anh dù đang bị bệnh nằm trong Bệnh viện AK Aklepios Harburg, ngày 4 tháng 6 năm 2023 vừa qua cũng thản nhiên chấp nhận “nghiệp quả” và an nhiên niệm Phật.

Dang tay ôm nghiệp quả

Thiện ác tự tiền duyên

Âu cũng đều nhân quả

Không ta thán oán phiền.

 

Hôm nay vào bệnh viện

Phát hiện lắm hoài nghi

Sợ rằng gặp tai biến

Cần chữa trị cấp kỳ.

 

Đong đưa bình nước biển

Nhỏ từng giọt Cam Lồ

Theo kinh cầu đại nguyện

Nhịp nhàng tiếng Nam Mô.”

Đó chính là lợi ích lớn lao và cụ thể mà một người Phật tử như nhà thơ Tùy Anh có tín tâm và tinh tấn hành trì lời Phật dạy đạt được ngay trong đời này.

Khép lại tập thơ “Cũng Đành Dâu Bể Với Thời Gian” của nhà thơ Tùy Anh, lòng tôi tự nghĩ rằng phải chăng chính tâm hồn an nhiên tự tại và giải thoát nhờ thấm nhuận giáo lý Nhà Phật đã giúp anh có được nguồn cảm hứng và sáng tạo vô bờ để cống hiến cho nền văn học Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam những áng thơ làm rung động lòng người!

Xin cảm ơn nhà thơ Tùy Anh. Cầu mong anh “chân cứng đá mềm” để tiếp tục con đường phục vụ Đạo Pháp và Dân Tộc.

Mỹ quốc, những ngày giữa mùa Hạ 2023

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hiếm có một tiểu thuyết như Đường về thủy phủ của Trịnh Y Thư. Không phải là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhưng lại làm người đọc phải bâng khuâng nghĩ về những chặng đường đã trải qua của dân tộc. Không phải là một tiểu thuyết diễm tình, nhưng lòng độc giả sẽ chùng xuống khi khép trang sách lại và ngậm ngùi cho những mối tình tan vỡ. Bạn có thể đọc xong, tuần sau đọc lại, vẫn còn thấy có những gì như cần đọc nữa. Chữ của Trịnh Y Thư như dường không cũ tí nào, vì nó luôn luôn gợi tới những gì sâu thẳm trong tim mỗi người, những ước mơ về một mối tình rất mực kỳ ngộ, rất mực dị thường.
“Ở Phía Đông Âm Phủ” là một trong hai truyện tạo thành tập truyện có cùng tựa đề “Ở Phía Đông Âm Phủ” của nhà văn Nguyễn Viện. Sách dày 184 trang do Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2024. Ở âm phủ, dĩ nhiên, để bị trừng phạt và đền tội, nếu vậy, ngụ ý của tác giả là tội gì, đối với các nhân vật trong truyện, những lãnh tụ có thật đưa vào hư cấu, mang máu lịch sử, tạo ra những khúc quanh lớn cho dân tộc, chôn hàng hà sa số xương thịt của người dân, dù có ý định tốt đẹp? Đối với lãnh đạo, lý tưởng và hành động là hai bạn đồng hành, nếu họ yêu nhau, chuyện tốt đẹp sẽ xảy ra; nếu họ phản bội nhau, chuyện xấu xa sẽ xuất hiện sau mặt nạ son phấn của tuyên truyền.
Sách mới "Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ" của Nguyễn Viện, do NXB Tiếng Quê Hương (Mỹ) ấn hành, 2024. Gồm 2 truyện kịch: VÀ, HẮN ĐÃ ĐẾN & Ở PHÍA ĐÔNG ÂM PHỦ. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng nhận định: “Ở phía đông âm phủ” độc đáo ở chỗ tác giả không miêu tả trực tiếp nhân vật, mà để cho họ nói năng như trên sân khấu, như trong một vở kịch. Hình thức tiểu thuyết - kịch rất hiếm trong văn học Việt Nam… Những quan sát của anh sắc bén, và trong một ngôn ngữ đẹp, giản dị, tinh tế, dí dỏm, tôi thiết nghĩ anh đã thành công trong việc đánh thức ý thức lịch sử và xúc cảm cá nhân nơi người đọc. Nhà nghiên cứu lý luận Ngu Yên đúc kết: Trên con đường văn chương Việt, Nguyễn Viện trở thành một trong số ít nhà văn phiêu lưu, dọ dẫm vào miền văn học lạ lẫm.
Kề từ khi bệnh tật tận tình thăm hỏi, Khánh Trường đã cho ra đời: Truyện ngắn Khánh Trường (2016), Chuyện Bao Đồng (tạp bút, 2018) và các tiểu thuyết: Tịch Dương (2019), Dấu Khói Tàn Tro (2020), Bãi Sậy Chân Cầu (2020), Có Kẻ Cuồng Điên Khóc (2020), Xuyên Giấc Chiêm Bao (2021), Đừng Theo Dông Bão (2021). Nắng Qua Đèo (2021), Năm Tháng Buồn Thiu (2023), Cùng Nhau Đất Trời (2024) và cuối cùng là tập Thơ Khánh Trường (2024). Số tác phẩm đồ sộ này, ít ai, kể cả những tác giả sung sức nhất, làm nổi. Đúng là…kỳ vĩ! Cuốn “Cùng Nhau Đất Trời” này có chút khác với các cuốn trước vì tác giả ghi ngay ngoài bìa sách là “du ký tiểu thuyết”. Chuyện mới à! Mới nhưng truyện của Khánh Trường chằng bao giờ thoát ra khỏi tình. “Cùng Nhau Đất Trời” cũng vậy, đây là một truyện tình. Nhân vật chính không còn trẻ, đã 38 tuổi, chưa chồng con. Ông bố sốt ruột: “Cô tưởng cô còn trẻ lắm sao? Kén cá chọn canh mãi, mai mốt thành gái già, hối không kịp”.
Nhận được cuốn tiểu thuyết Đường về thủy phủ của nhà văn Trinh Y Thư, nghiền ngẫm đọc mấy hôm và suy nghĩ viết đôi lời cảm nhận cho tác phẩm của ông...
Tôi đã đọc bản thảo “Dòng Đời” khá là chậm. Đôi khi tôi đọc lại môt số đoạn, một số trang. Khi đọc lại toàn văn bản thảo lần thứ nhì, tôi lấy giấy ra ghi chú về các nhân vật, các mốc thời gian, những chuyển biến khi các nhân vật dời đổi từ bên dòng sông này qua thị trấn miền núi kia. Tất cả như một cuốn phim về một quê nhà đang tìm hướng đi trong thời kỳ hậu thực dân Pháp, nơi lối rẽ của tranh chấp để con sông trở thành đôi bờ và rồi người lái đò (trong tiểu thuyết này là người có tên là ông Ba Đò) trở thành người hai mặt, bị buộc cung cấp tin cho cả hai lực lượng thuộc hai ý thức hệ khác nhau.
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018. Như đã thượng dẫn, Trịnh Y Thư là một người đa tài, chúng tôi xin giới thiệu đại khái về từng bộ môn ông đã sinh hoạt. Trong bộ môn văn, ông đã viết và phổ biến rộng qua sách in từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, khảo cứu, nhận định văn học, tùy bút, tạp bút, tạp luận. Với bộ môn thi ca, ông có một số ít bài theo phong cách vần điệu nhưng không cùn mòn. Chúng tôi nghĩ ông rất hứng thú và chuyên về trường ca, hoặc những bài viết có số lượng câu không quá ngắn hoặc quá dài, và ông cũng sử dụng cả lối thơ Hokku với chỉ 3 câu cho từng khổ.
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.