Sự cạnh tranh giữa các cường quốc bao gồm việc kết hợp các liên minh. Điều này có ý nghĩa gì trong thực tế và ai là người chiến thắng? Các sự việc trong tháng qua đã chỉ ra cơ hội xem xét lại hai nỗ lực cạnh tranh trong việc xây dựng liên minh. Một là sự thúc đẩy, dẫn đầu bởi trung quốc, nhằm tạo ra một khối các nền kinh tế mới liên kết hoạt động như một đối trọng với phương tây. Đây là mục đích của hội nghị thượng đỉnh brics được tổ chức vào tuần qua tại Johannesburg với sự tham dự của Narendra Modi và Tập Cận Bình, các nhà lãnh đạo Ấn Độ và Trung Quốc. Hai là việc Mỹ tăng cường mạng lưới phòng thủ ở thái bình dương. Trong hai nỗ lực này, nỗ lực của mỹ thuyết phục hơn.
Sự tập hợp của liên minh brics đã quy tụ các quốc gia Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi. Các mục tiêu được nêu là mở rộng số lượng thành viên của câu lạc bộ và nâng cao năng lực của nhóm trong các lĩnh vực như cho vay phát triển và thanh toán tài chính. Sự kiện này cho thấy nhu cầu của một số quốc gia về một trật tự thế giới ít phương Tây hơn: sáu quốc gia được mời tham gia brics bắt đầu từ tháng 1 năm 2024, bao gồm Argentina, Iran và Ả Rập Saudi. Nhưng nó cũng cho thấy một nhóm khác biệt như vậy sẽ phải đấu tranh như thế nào để đạt được hiệu quả.
Nếu mục đích là nhằm thể hiện các giá trị chung, thì việc Vladimir Putin phải phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh bằng đường truyền video cũng khó giúp ích gì - vì sợ rằng nước chủ nhà Nam Phi sẽ phải thi hành lệnh bắt giữ toàn cầu đối với ông vì tội ác chiến tranh. Khi nhóm mở rộng, căng thẳng có thể gia tăng: Ấn Độ lo ngại ảnh hưởng của mình sẽ bị suy giảm, tạo thêm ảnh hưởng cho Trung Quốc. Hợp tác quốc phòng có lẽ là điều không thể. Nỗ lực tạo ra một cơ sở hạ tầng tài chính chung (chưa nói đến việc chia sẻ một loại tiền tệ) có vẻ quá tham vọng đối với các quốc gia có nền kinh tế và chính trị rất khác nhau. Thay vì một cơ quan có khả năng hành động rộng rãi và nhất quán theo cách thức phối hợp, xây dựng các chuẩn mực và thể chế toàn cầu, các tổ chức có thể sẽ đóng một vai trò quan trọng nhưng hạn chế hơn. Các thành viên của nhóm có thể hợp tác trong những vấn đề hẹp mà họ đồng ý, chẳng hạn như nghĩa vụ của các nước giàu trong quá trình chuyển đổi năng lượng, và đôi khi cùng nhau hành động để tấn công hoặc cố gắng ngăn chặn các sáng kiến do phương Tây dẫn đầu.
Ngược lại với việc xây dựng liên minh của Mỹ, cuộc chiến ở Ukraine đã tiếp thêm sinh lực cho NATO, khối đã mở rộng số thành viên bao gồm Phần Lan và có lẽ cả Thụy Điển. Tổng thống Joe Biden cũng đang hoạt động ở châu Á để chống lại Trung Quốc. Vào ngày 18 tháng 8 vừa qua, ông chủ trì một hội nghị thượng đỉnh tại Trại David với các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Hàn Quốc, những người gạt bỏ xung khắc cũ sang một bên, đồng ý tăng cường hợp tác về tên lửa đạn đạo và thiết lập đường dây nóng quân sự. Trước đó, tổng thống Biden cũng đã đạt được thỏa thuận cho phép Mỹ sử dụng nhiều căn cứ quân sự hơn ở Philippines và Papua New Guinea.
Trong khi đó, mối quan hệ quốc phòng tưởng như “không thể phá vỡ” với Úc đang trở nên tốt đẹp hơn sau thỏa thuận aukus được ký kết vào tháng 3, trong bối cảnh có một loạt các thỏa thuận về thiết bị và các cuộc tập trận quân sự. Nếu chiến tranh nổ ra với Trung Quốc, người Úc dường như sẵn sàng chiến đấu bên phía Mỹ. Các căn cứ trên bộ, trên biển và trên không của Úc đang mở rộng để tiếp nhận thêm lực lượng Mỹ. Theo thỏa thuận aukus, Úc sẽ có được các loại vũ khí tầm xa của riêng mình, chẳng hạn như tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân (nhưng không được trang bị vũ khí hạt nhân) và sẽ được phát triển cùng với Mỹ và Anh. Ba quốc gia này muốn hợp tác về các công nghệ quân sự khác, từ tên lửa siêu thanh đến máy bay không người lái dưới nước.
Những kế hoạch này vẫn còn có điểm yếu. Chủ nghĩa bảo hộ của Biden ngăn cản Mỹ không hợp tác kinh tế rộng với Trung Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các nền kinh tế châu Á. Ông không có dấu hiệu sẽ tham gia cptpp, một hiệp định thương mại mà tiền thân của nó đã được Barack Obama đàm phán và bị Donald Trump hủy bỏ. Trong khi Trung Quốc phàn nàn về một “nato châu Á”, Mỹ và các đồng minh châu Á không có cam kết chung nào để bảo vệ lẫn nhau, chứ đừng nói đến việc gây chiến với Đài Loan. Chính phủ Úc, nếu muốn duy trì sự ủng hộ của công chúng lưỡng đảng, cũng phải thẳng thắn hơn về chi phí của liên minh.
Cuối cùng, nếu ông Trump trở thành tổng thống vào năm 2024, việc phục hồi các liên minh an ninh của Mỹ của ông Biden vẫn có thể bị hủy bỏ. Càng có thêm lý do để Mỹ và các đồng minh tiếp tục tiến nhanh. Họ càng có thể ổn định và Quốc hội càng có thể chứng minh rằng tầm nhìn về an ninh châu Á mang tính lưỡng đảng thì càng tốt cho tất cả mọi người. Tháng vừa qua cho thấy sức mạnh mạng lưới và liên minh của Mỹ vẫn tồn tại và phát triển, và việc tạo ra các liên minh cạnh tranh thay thế là điều không dễ.
Việt Báo biên dịch
Nguồn: “How Joe Biden is transforming America’s Asian alliances” trên tạp chí The Economist, mục Leaders.
Gửi ý kiến của bạn