Trầm cảm là một trong những căn bệnh lớn của thời đại. Hơn một phần ba phụ nữ và gần một phần tư đàn ông ở Thụy Điển bị trầm cảm vào một thời điểm nào đó trong đời. Đối với một số người, thì một sự kiện căng thẳng tâm lý nào đó gây ra trầm cảm, ở những người khác, bệnh dường như bùng phát một cách tự nhiên và với một số ít là do tác dụng phụ của thuốc.
Nhưng những gì xảy ra trong não vẫn còn là một bí ẩn. Trong những năm 1960, một giả thuyết cho rằng trầm cảm là do sự mất cân bằng hóa học trong não bởi thiếu hụt chất kích thích tố (hoóc-môn) serotonin. Chất hoóc-môn này truyền tín hiệu serotonin cần thiết cho một số tế bào thần kinh trong não để có thể giao tiếp với nhau.
Một số người phê bình thường nói rằng ngành công nghiệp dược phẩm đã tạo ra giả thuyết serotonin để bán thuốc. Nhưng các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ đã vô tình tìm thấy một phân tử được chứng minh là có tác dụng chống trầm cảm, và sau đó các nhà nghiên cứu Mỹ đã phát hiện ra rằng chính phân tử đó đã ảnh hưởng đến chất dẫn truyền thần kinh norepinephrine.
Nhà nghiên cứu người Thụy Điển và người đoạt giải Nobel Arvid Carlsson cuối cùng đã phát hiện ra rằng cùng một phân tử đã làm tăng mức độ của chất truyền tín hiệu serotonin, chất này cũng có tác dụng đối với chứng trầm cảm.
Vào thời điểm đó, không có nhiều thông tin về chức năng của các chất hoóc-môn truyền tín hiệu trong não. Nhưng các nhà nghiên cứu lúc đó đồng kết luận rằng trầm cảm có thể do thiếu hụt serotonin. Nghiên cứu của Arvid Carlsson, được thực hiện với sự hợp tác của công ty dược phẩm Hässle (thuộc sở hữu của Astra, sau này trở thành AstraZeneca), đã dẫn đến loại thuốc SSRI đầu tiên. SSRI, là tên viết tắt của chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (Serotonin Selective Reuptake Inhibitor). Có hơn mười tỷ tế bào thần kinh trong não. Tín hiệu giữa các tế bào được gửi đi bằng chất dẫn truyền thần kinh (ví dụ: serotonin). Khi bị trầm cảm, thì nhiều phần do mức độ của các chất này có thể bị ảnh hưởng, nhưng theo cách nào thì vẫn còn là những tranh cãi.
Nhưng theo thời gian, các nhà khoa học hiểu rằng trầm cảm là một căn bệnh phức tạp, trong đó việc thiếu serotonin chỉ là một trong số những nguyên nhân khả dĩ. Trong số nhiều nghiên cứu, người ta cho rằng serotonin có liên quan đến căn bệnh này, nhưng không rõ bằng cách nào. Ngày nay, một số người tin rằng hoạt động serotonin quá cao chứ không phải quá thấp và các chất truyền tín hiệu khác cũng đóng một vai trò quan trọng.
Hai trong số ba người mắc bịnh vẫn được hỗ trợ bởi các chế phẩm SSRI. Cũng có một số loại thuốc khác có tác dụng đối với một loại bệnh nào đó tuy vẫn không thực sự biết liệu chúng có chữa được hay không. Chẳng hạn như thuốc hạ huyết áp. Người ta vẫn không hiểu được tại sao áp suất trong các mạch máu lại tăng lên, nhưng vẫn có thể hạ áp huyết xuống với sự trợ giúp của nhiều chất có cơ chế hoạt động hoàn toàn khác nhau.
Ngày nay, rất nhiều nghiên cứu đang được thực hiện trong các phương pháp điều trị khác. Chẳng hạn như các nhà nghiên cứu xem xét các chất dẫn tín hiệu như glutamate và norepinephrine, hoặc gần đây nhất là hoạt động của chất trong thuốc gây mê ketamine. Nhiều người trầm cảm cũng có dấu hiệu viêm mức độ thấp, nhưng không chắc liệu viêm có phải là nguyên nhân gây trầm cảm hay ngược lại hay không.
Thuốc SSRI là một phương pháp điều trị an toàn, mà theo nghiên cứu đã được chứng minh là có hiệu quả hơn giả dược đối với một căn bệnh có thể đe dọa đến tính mạng. Tuy vậy vẫn có những nhà phê bình xử dụng những vấn đề quanh chất serotonin để chỉ trích việc chữa trị bằng loại thuốc này. Dù sao thì nghiên cứu của Thụy Điển đã cho thấy rằng SSRI có thể làm giảm nguy cơ tự tử. Vì vậy, mặc dù những gì xảy ra trong não khi bị trầm cảm vẫn còn là một bí ẩn, chúng ta vẫn không biết chắc thuốc trầm cảm SSRI hoạt động như thế nào, nhưng chúng dường như vẫn có tác dụng.
Gửi ý kiến của bạn