Hôm nay,  

Các nhà thơ Hồi giáo Sufi điển hình

26/05/202300:00:00(Xem: 4595)
 
Chúng ta hàng ngày đọc tin thời sự, dễ dàng nhìn về thế giới Hồi giáo dường như đầy những bạo lực, và nhìn về một quốc gia Iran như một tuyến đầu tua tủa những dàn phóng phi đạn hướng về thế giới tự do. Chúng ta cũng từng thấy các chính phủ Hồi giáo theo các hệ phái khác nhau đã kình nhau, thậm chí trong một nước, như Iraq, cùng từng sinh khởi nội chiến. Tuy nhiên, vẫn có một Hồi giáo khác, một Hồi giáo rất mực hòa bình, một hệ phái ít được báo chí hàng ngày tường thuật chỉ vì họ không gây ra các biến cố hung hăng nào. Đó là Hồi giáo Sufi, một khuynh hướng rất mực thần bí có từ nhiều thế kỷ qua, và là nơi rất mực thơ mộng của Hồi giáo: một nơi của những dòng chữ về vẻ đẹp của sa mạc, của tịch lặng, của yêu thương.
 
Các tác phẩm văn học Sufi ghi trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, có nội dung tư tưởng thần bí của Hồi giáo Sufi. Khuynh hướng này trong tiếng Anh gọi tắt là Sufism, một kho tàng văn học về sau có ảnh hưởng tới nhiều nền văn học thời trung cổ, đặc biệt là thơ, được viết bằng tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Urdu. Có một yếu tố nổi bật: sự cởi mở của các nhà thần bí Sufi đã cho nhiều tự do hơn cho văn học so với thơ ca cung đình Hồi giáo thời kỳ đó.
 
Văn học Sufi cũng gần với đời sống hơn, mượn các yếu tố văn hóa dân gian để đưa vào văn học, cụ thể hóa cho người bình dân dễ hiểu, thí dụ, sự kết hợp giữa Trời và Người, của Nguyên Lý Tối Cao và người dân bình thường được mô tả như là người tình nhân trong đời, và do vậy Thượng đế trở thành một người tình không được thấy mặt nhưng vẫn không xa tầm mắt của nhà thơ. Một số bài thơ cũng chệch ra ngoài vòng chính thống, có chủ đề phản đối sự áp bức, nhấn mạnh vào công lý thiêng liêng, chỉ trích những kẻ thống trị độc ác, cuồng tín tôn giáo, tham lam và đạo đức giả của các giáo sĩ Hồi giáo chính thống. Khi viết chủ đề như thế, chữ nghĩa ẩn hình như ngụ ngôn và truyện cổ tích.
 
Tuy nhiên hầu hết tác phẩm của các nhà thơ Sufi là văn học sùng đạo Hồi giáo thần bí, có chủ đề như tình yêu thiêng liêng và sự kết hợp thần bí giữa con người và Thượng đế, thường thông qua các phép ẩn dụ của thơ tình thế tục. Và như thế đã ảnh hưởng lớn tới sự mơ hồ thần bí-thế tục trong các nền văn học nói tiếng Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Urdu (tiếng nói của Pakistan, pha trộn tiếng Ba Tư, Ấn Độ, Ả rập).
 
Trong khi thế giới hiện nay của chúng ta nhìn thấy phụ nữ không có tiếng nói trong thế giới Hồi giáo, cụ thể như nữ giới bị cấm đi học ở Afghanistan, nền văn học Sufi cho thấy hình ảnh phụ nữ Hồi giáo khác rất nhiều trong hơn một thiên niên kỷ trước. Như trường hợp nhà thơ nữ Rabia of Basra, một nhà thần bí của thế kỷ thứ 8 trong văn học Sufi, nổi bật như một đỉnh cao văn học thời xa xưa đó, không bị kỳ thị, không bị dìm hàng… khi nữ thi sĩ đổi khái niệm sợ hãi Thượng đế của Hồi giáo truyền thống trở thành khái niệm yêu thương, và như thế đổi hình ảnh các giáo sĩ Hồi giáo chinh phục thế gian bằng gươm đao và truyền giáo ồn ào để trở thành một hình ảnh bình đẳng, hòa bình, yêu thương và tịch lặng. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng khái niệm “tình yêu trọn vẹn” này trong Hồi giáo Sufi có thể được rút ra từ các cội nguồn Ba Tư hoặc Ấn Độ giáo (và có thể một phần của Phật giáo), và không hề có ý tưởng thần bí tương đương như thế từ Cơ đốc giáo hay Do Thái giáo trong thế kỷ thứ chín. Trong tình yêu thần bí đó, nổi bật trong thơ Rumi (1207 – 1273), một nhà thơ Sufi có lẽ nổi tiếng và có ảnh hưởng hàng đầu, đã phát triển khái niệm tình yêu như một biểu hiện trực tiếp của ý muốn của Nguyên lý tối thượng, cũng như đưa ra khái niệm về sự thống nhất và đồng nhất của nhân loại. Trong thơ của các nhà thơ Hồi giáo Sufi xa xưa đó, Trời và Người có vẻ ngang hàng nhau, hội nhập vào nhau, và tư tưởng này về sau có thấy trong một số nhà thần bí Ky tô --- điển hình tư tưởng của Linh mục dòng Đa minh Đức Master Eckhart (1260 – 1328) từng bị Giáo hoàng Pope John XXII kết luận là lạc giáo, rối đạo. Tình hình như thế, cho thấy tư tưởng Sufi cũng là thiểu số, không bao giờ trở thành dòng chính trong thế giới Hồi giáo, và dĩ nhiên không bao giờ có quyền lực tương đương với các hệ phái Hồi giáo khác..
 
 
NHÀ THƠ RUMI
 
 
Nổi tiếng nhất trong các nhà thơ Hồi giáo Sufi là Rumi (1207-1273).  Đôi khi được gọi đầy đủ là Jalal ad-Din Muhammad Rumi, có nghĩa là Bậc thầy của chúng ta, là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế giới Hồi giáo. Thế giới văn học Anh gọi ông đơn giản là Rumi. Là một nhà thần bí Sufi, và là một triết gia, Rumi nêu bật trong thơ một tình yêu nhân loại. Nhánh Sufi chịu ảnh hưởng của Rumi đã hình thành một phái thần bí để tôn vinh những lời dạy của Rumi — nhánh Sufi này được nhiều người phương Tây gọi là 'Whirling Dervishes', tên riêng của họ là trật tự Mevlevi, với hình ảnh thường gặp trong phim ảnh là điệu múa xoay vòng Sufi.
 
_01 poet RUMI
Bìa sách tuyển tập thơ Rumi, bản dịch của Coleman Barks. Tranh vẽ Rumi do Hossein Behzad (1957), một họa sĩ Iran, từ mạng Wikipedia.
  
Rumi sinh năm 1207 tại Balkh, Ba Tư, ngày nay là Afghanistan. Cha của ông, Bahāʼ al-Dīn Valad, là một giáo viên tôn giáo và nhà thần bí nổi tiếng đã nhận một vị trí tại trường đại học ở Balkh. Khi quân Mông Cổ xâm lược Ba Tư, Rumi rời Ba Tư đến Konya, lúc đó thuộc đế chế Ba Tư. Rumi đã sớm được giáo dục tâm linh dưới sự dạy dỗ của cha mình là Bahauddin và sau đó là dưới sự dạy dỗ của người bạn thân Sayyid Burhaneddin của cha mình ở Balkh. Rumi đã trưởng thành cả về kiến thức lẫn ý thức về đạo qua nhiều năm. Cuối cùng Sayyid Burhaneddin nói với Rumi rằng giờ đây anh đã sẵn sàng và là một học giả Sufi trưởng thành và rằng 'giai đoạn tiếp theo' trong quá trình phát triển tâm linh của anh sẽ sớm xảy ra. Và theo truyền thuyết, Sayyid đã dự đoán sự xuất hiện của Shams of Tabriz, sẽ làm thay đổi cuộc đời Rumi.
 
Ở tuổi 37, Rumi gặp Shams, một người lang thang tâm linh và được xem là một thánh nhân. Chính cuộc gặp gỡ của ông với người tu sĩ này vào năm 1244 đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời ông. Trước cuộc gặp gỡ này, Rumi đã từng là một giáo sư tôn giáo nổi tiếng và là một nhà thần bí có nhiều kinh nghiệm sâu thẳm; sau đó Rumi trở thành một nhà thơ đầy cảm hứng và một người yêu nhân loại vĩ đại. Sự đồng hành của Shams với Rumi rất ngắn ngủi. Mặc dù thực tế là mỗi người là một tấm gương hoàn hảo cho người kia, nhưng Shams đã biến mất không chỉ một mà hai lần. Lần đầu tiên, con trai của Rumi, Sultan Veled, đã tìm kiếm Shams và tìm thấy Shams ở Damascus. Tuy nhiên, lần mất tích thứ hai đã được chứng minh là cuối cùng và người ta tin rằng Shams có thể đã bị sát hại bởi một số giáo sĩ Hồi giáo chính thống và những người khác của Konya, những người phẫn nộ với ảnh hưởng của ông ta đối với Rumi.
 
Shams thuyết phục Rumi rằng tại một số thời điểm nhất định, chúng ta có thể giao tiếp trực tiếp với Đấng tối cao: các tín đồ thay vì chỉ đơn giản là người phiên dịch lời Đấng tối cao, trên thực tế, họ có thể trực tiếp trải nghiệm sự hiện diện của Đấng tối cao. Tác dụng đối với Rumi là ngay lập tức: từ bỏ trách nhiệm gia đình và học thuật, Rumi dành toàn bộ thời gian để học hỏi càng nhiều càng tốt từ Shams. Tuy nhiên, nhà thần bí Shams ra đi không lời giải thích, và biến mất vĩnh viễn vào năm 1248. Kể từ đó, Rumi cống hiến hết mình cho thơ ca, và ông chủ yếu viết về chủ đề tình yêu. Những câu thơ của ông, lấy cảm hứng từ Shams— được tính là hơn 30,000 câu trong tất cả—được thu thập trong một tác phẩm mà ông gọi là Diwan-i Shams-i-Tabriz ('The Divan of Shams of Tabriz'). Về mặt phong cách, Rumi ưa chuộng ghazal, một thể thơ truyền thống của Ba Tư có tới mười hai dòng có vần; và ở mức độ đơn giản hơn, dạng thơ tứ tuyệt Rubai.
 
Mặc dù đã có một truyền thống thần bí Hồi giáo xuất hiện trước Rumi, nhưng thơ của Rumi đã biến đổi cả tư duy và nghi lễ về mặt này. Ví dụ, điệu nhảy hướng tâm nổi tiếng của các dervishe - nghi lễ sema - được cho là lấy cảm hứng từ các chuyển động của chính Rumi quanh một cây cột trong khu vườn của Rumi khi Rumi thương tiếc cho người bạn đồng hành của mình là Shams. Theo thời gian, những hành động này đã được Rumi điều chỉnh thành một pháp chiêm nghiệm Sufi và sau đó được truyền lại cho các đệ tử được ông ưu ái, những người đã soạn lại thành các hoạt động của Dòng Mevlevi mà họ đã thành lập để vinh danh Hồi giáo Sufi và nhà thơ Rumi. Rumi qua đời vào ngày 17/12/1273 sau Công nguyên và Urs (Lễ kỷ niệm / lễ hội tâm linh) tưởng nhớ Rumi được tổ chức hàng năm vào ngày 8 tháng 12 tại Turbe (đền thờ) của ông ở Konya (Thổ Nhĩ Kỳ).
 
_02 Dieu mua Sufi xuat phat tu cam hung RUMI
Điệu múa Sufi, một hình thức cầu nguyện hay ngợi ca sự hợp nhất với Nguyên lý tối cao.
  
Nhiều nhà phê bình văn học nhận ra rằng, trong thơ của mình, Rumi thường sử dụng những hình ảnh có thể gây bất ngờ. Ví dụ, mặc dù Hồi giáo cấm uống rượu, nhưng Rumi thường mô tả cảm giác 'say và say như ngây ngất vì người mình yêu'. Ở đây say ngụ ý niềm hạnh phúc của tâm thức thiêng liêng. Tình yêu là chủ đề thường xuyên trong các bài thơ của Rumi, những mô tả về tình yêu lãng mạn dường như chỉ là ảo ảnh đối với tình yêu thiêng liêng, thuần khiết bao trùm tất cả. Những phép ẩn dụ như thế này về sau là phổ biến đối với nhiều nhà thơ Sufi khác.
 
Giáo sư người Ấn độ Hazrat Inayat Khan (1882-1927), chuyên ngành triết học và âm nhạc, sinh trong một gia đình có truyền thống Hồi giáo thần bí, nhận định về thơ Rumi: "Những chữ nguyên gốc độc đáo của Rumi rất là sâu sắc, rất mực hoàn hảo, cực kỳ cảm động, đến nỗi khi một người đàn ông lặp lại các chữ đó, sẽ có hàng trăm, hàng ngàn người rơi nước mắt. Những chữ đó ngấm vào trái tim. Điều này cho thấy bản thân Rumi đã xúc động đến mức nào khi có thể thốt ra những lời sống động như vậy.”
 
Sau đây là vài bài thơ tiêu biểu của Rumi. Chữ “you” dịch là “bạn” hay “em” hay cũng có thể hiểu là “tôi” khi tự nhủ, hay người đọc, người đối diện, người tình, người bạn, hay thượng đế, hay cái không có tên.
 
ÁC MỘNG

Một hôm, bạn sẽ nhìn lại, và cười chính mình.
Bạn sẽ nói, 'Tôi không thể tin rằng mình đã ngủ say như vậy!
Làm thế nào tôi đã từng quên sự thật?
Thật kỳ dị để tin rằng nỗi buồn và cơn bệnh
Không gì khác hơn là những giấc mơ xấu.

---- Rumi
.
YÊU THƯƠNG

Yêu thương làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào.
Yêu thương làm cho đồng thành vàng.
Với yêu thương, cặn lóng xuống thành trong veo.
Với yêu thương, khổ đau chấm dứt.
Yêu thương làm người chết sống lại.
Yêu thương biến quốc vương thành nô lệ.
Yêu thương là sự hoàn thành của Ngộ đạo.
Làm sao một tên ngốc có thể ngồi trên một ngai vàng như thế?

---- Rumi
.
TÌNH YÊU LÀ THUỐC CHỮA LÀNH

Tình yêu là thuốc chữa lành
vì nỗi đau của bạn sẽ cứ mãi sinh ra thêm nhiều nỗi đau
cho đến khi mắt bạn liên tục thở ra tình yêu
tự nhiên như thân bạn toát ra mùi hương.

---- Rumi
.
TÔI QUĂNG TẤT CẢ ĐI

Bạn chơi với thế giới hợp nhất vĩ đại,
bạn nhìn thấy mọi người rất rõ ràng
và bạn không thể được nhìn thấy. Ngay cả
  
trí tuệ thông minh cũng mờ nhạt khi nghĩ rằng
bạn có thể đã rời xa. Bạn đã đến đây một mình,
nhưng đã tạo ra hàng trăm thế giới mới.
  
Mùa xuân là một con công đùa giỡn với
khải thị. Những vườn hồng rực lửa.
Đại dương đã tràn vào thuyền. Tôi quăng
tất cả đi, ngoại trừ yêu thương này cho Shams.

--- Rumi
.
SỨC MẠNH KHÔNG ĐƯỢC THẤY

Chúng ta là ống sáo, tiếng nhạc của chúng ta đều là Ngài;
Chúng ta là những ngọn núi âm vang chỉ là Ngài;
Và chuyển động để bại hay thắng;
Những con sư tử giương cao lá cờ mở ra
theo gió vô hình quét chúng ta đi qua thế giới.

---- Rumi
.
NHÀ THƠ AL HALLAJ 
 
Nhà thơ Al Hallaj là một vị thầy Sufi huyền thoại người Iran, sống trong khoảng các năm 858 – 922 theo Tây lịch. Khi còn trẻ, Al Hallaj đã thuộc lòng Kinh Qur'an và thường xa lìa thế gian trần tục để theo học các nhà thần bí khác. Ông dành cả cuộc đời mình để chiêm nghiệm và trở thành một nhà thơ thần bí Sufi nổi tiếng. Nhà thơ bị đóng đinh và bị tra tấn tới chết vì bị cho là dị giáo, niềm tin không chính thống.
 
Al-Hallaj kết hôn trễ và đã có một chuyến hành hương đến Mecca. Sau chuyến đi đến thành phố được Hồi giáo tin là linh thiêng đó, ông đã đi du lịch nhiều nơi. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết và dạy các ý tưởng Sufi cho nhiều người. Sau một thời gian đi tới Ấn Độ và nhiều vùng khác của Trung Á, ông định cư tại thủ đô Baghdad của triều đại Abbasid. Al Hallaj đã dành cả cuộc đời của mình để suy ngẫm và thường rơi vào trạng thái xuất thần. Trong những trạng thái tâm linh cao độ này, nhà thơ cảm thấy hoàn toàn đồng nhất với tất cả tạo vật và với Thượng đế.
 
_03 poet al Hallaja
Nhà thơ al Hallaj bị xử tử, hình từ Wikipedia, theo một cổ bản thơ năm 1600.
  
Qua những trải nghiệm trực tiếp về chiêm nghiệm sự đồng nhất của tạo hóa, ông từng nói “Ana al-haqq” (“Tôi là Sự thật”– hiểu là Thượng đế). Vào thời đó, nói như thế bị coi là rất báng bổ, mọi người không thể hiểu được quan điểm của nhà thần bí này. Do vậy, Al Hallaj đã bị bức hại và bị kết tội dị giáo. Sau 11 năm ngồi tù, Al Hallaq bị nhà cầm quyền Abbasid tra tấn và đóng đinh. Có nhiều lời kể rằng Al Hallaj luôn luôn bình tĩnh, và bày tỏ thái độ tha thứ cho những kẻ đã tra tấn ông. Trước khi bị xử tử, ông nói mấy dòng thơ:
 
Bây giờ không còn gì giữa Sự thật và tôi
Hay là sự hiển lộ hợp lý,
Hay là chứng cớ khải thị;
Bây giờ, rực rỡ chiếu sáng tràn đầy, ánh sáng của Sự thật
Từng tia sáng chập chờn, mờ dần.
  
Dưới đây là vài bài thơ tiêu biểu của Al Hallaj.
 
ĐỂ ĐẾN VỚI THƯỢNG ĐẾ

Vì bạn, tôi vội vã đi qua đất và nước:
Vì bạn, tôi vượt qua sa mạc và xẻ đôi ngọn núi,
Và tôi quay mặt xa mọi thứ,
Cho đến khi tôi đến nơi
Nơi tôi ở đơn độc với Bạn.

---- Al  Hallaj
.
THEO SÓNG

Tôi không ngừng bơi trong biển yêu thương
sóng dâng lên rồi hạ xuống;
bây giờ sóng nâng đỡ tôi, và rồi tôi chìm dưới sóng
yêu thương mang tôi đi, nơi không còn bến bờ.

---- Al  Hallaj
.
TÔI LÀ NGƯỜI TÔI YÊU THƯƠNG

Tôi là người tôi yêu thương,
và người tôi yêu thương là chính tôi.
Chúng ta là hai linh hồn nhập thể trong một cơ thể;
nếu bạn thấy tôi, bạn thấy Ngài,
nếu bạn thấy Ngài, bạn nhìn thấy chúng tôi.

---- Al Hallaj
.
HÃY GIẾT TÔI, HỠI NHỮNG NGƯỜI BẠN TRUNG THÀNH CỦA TÔI

Hãy giết tôi, hỡi những người bạn trung thành của tôi
Vì thân tôi bị giết là cuộc đời của tôi.
Yêu thương là bạn vẫn đang đứng
Trước mặt người được yêu của bạn
Khi bạn bị tước bỏ hết những gì là bạn
Lúc đó, những gì là Ngài trở thành chính bạn.
Giữa tôi và bạn, chỉ có duy nhất tôi.
Hãy tước bỏ đi cái tôi, để chỉ còn lại Bạn.

---- Al Hallaj
  
NHÀ THƠ HAFIZ 
 
Nhà thơ thần bí Hafiz (1325 –1389) được nhiều nhà phê bình gọi một cách vinh danh là “Tiếng nói của Đấng vô hình” và chính nhà thơ Hoa Kỳ Ralph Waldo Emerson đã nhận xét rằng “Hafiz là nhà thơ của các nhà thơ.” Thơ của Hafiz có vẻ đẹp và chất nhạc, thể hiện tính hồn nhiên tự phát thơ mộng. Tương tự nhiều nhà thơ Sufi khác, Hafiz đan xen các chủ đề về sự mơ hồ vào các bài thơ, qua những hình ảnh thế tục như rượu, say và tình yêu nhân gian. Hafiz sinh ra ở thành phố Shiraz ở Ba Tư (nay là Iran). Khi còn nhỏ, ông được gọi là Shams 'ud-din Mohammed. Khi còn nhỏ, Hafiz đã học thuộc Kinh Qur'an, và đó là lý do tại sao ông lấy bút danh là 'Hafiz'. Chữ Hafiz có nghĩa là người đã thuộc lòng toàn bộ Kinh Qur'an. Bên cạnh nghiên cứu Kinh Qur'an, Hafiz cũng nghiên cứu về các nhà thơ Sufi lớn, như Rumi…
  
Một câu chuyện nổi tiếng về Hafiz kể về chuyện anh yêu thương một thiếu nữ. Anh đã nhìn thấy cô ở một nơi khi anh đang giao bánh mì. Anh say mê nàng đến nỗi không thể nghĩ đến điều gì khác. Hafiz bắt đầu viết những bài thơ tình để tặng cho nàng, và những bài thơ này đã trở nên nổi tiếng khắp Shiraz. Không thể sống thiếu nàng, Hafiz quyết định thực hiện 40 đêm canh thức tại lăng mộ của Baba Kuhi. Theo truyền thuyết, Babu Kuhi là một nhà thơ nổi tiếng, người đã hứa sẽ thực hiện 3 điều ước cho bất kỳ ai có thể thức suốt 40 đêm bên lăng mộ của ông.
  
_04 poet HAFIZ
Hai bìa sách 2 tuyển tập thơ Hafiz.
 
Trong đêm đầu tiên, Hafiz đã nhìn thấy Thiên thần Gabriel, hiện ra như một thiếu nữ xinh đẹp, và anh say mê vẻ đẹp này ngay, nên quyết tâm chỉ tìm kiếm Thượng đế, về bản chất sẽ đẹp hơn bất kỳ hình dạng con người nào. Thiên thần Gabriel sau đó tiết lộ cho Hafiz nơi có thể tìm thấy một bậc thầy tâm linh, người có thể dẫn anh đến với Thượng đế. Vị thầy này là Muhammed Attar, đang sống một cuộc đời khiêm tốn ở Shiraz.
 
Từ đó trở đi, Hafiz trở thành một nhà thơ phi thường với hàng trăm bài thơ thể hiện niềm khao khát được kết hợp linh thiêng. Thơ đã làm cho Hafiz trở nên nổi tiếng và ông đã nhận được sự tôn trọng và yêu mến của nhiều cư dân địa phương. Tuy nhiên, chất thơ ngây ngất và phi chính thống của Hafiz đã gây ra chống đối từ những người Hồi giáo chính thống đang cầm quyền. Do vậy, Hafiz đã hai lần phải chạy trốn khỏi thành phố Shiraz. Trong nhiều trường hợp bị truy bức, Hafiz chỉ thoát được nhờ sự thông minh nhạy bén của mình. Truyền thuyết kể rằng Hafiz đã sáng tác khoảng 5.000 bài thơ, mặc dù nhiều bài không được viết xuống, và do đó có một số tranh cãi trong giới học giả về tính xác thực của một số bài thơ. Truyền thuyết ghi rằng Hafiz đã từng tuyên bố, “Không ai có thể vẽ một bức tranh quá tuyệt vời của trái tim tôi hoặc Thượng đế.” Dưới đây là vài bài thơ tiêu biểu của Hafiz.
  
NHỮNG NGÀY XUÂN

Những ngày Xuân đã tới. Hoa Eglantine,
Hoa hồng, hoa uất kim hương từ bụi đất đã trồi dậy –
Và bạn, vì sao bạn nằm dưới bụi?
Như những đám mây mùa xuân, đôi mắt này của tôi
Sẽ rơi nước mắt trên ngôi mộ nhà tù của bạn,
Cho đến khi bạn cũng từ bụi đất trồi ra.

---- Hafiz
   .
MỘT BÉ SƠ SINH TRONG VÒNG TAY BẠN

Thủy triều của tình yêu của tôi
Đã lên quá cao để ngập tràn tôi
Bạn.
  
Hãy nhắm mắt bạn trong một khoảnh khắc
Và có thể tất cả những
sợ hãi và hoang tưởng của bạn
Sẽ kết thúc.
  
Nếu điều đó xảy ra
Thượng đế sẽ trở thành một bé sơ sinh trong
Vòng tay bạn
  
Và rồi bạn
Sẽ phải chăm sóc tất cả
Tạo vật này.

---- Hafiz
  .
HÃY NGƯNG QUÁ MỘ ĐẠO

Hãy ngưng quá mộ đạo
Cái gì những người buồn thảm
có chung nhau?
.
Như dường như
Tất cả họ đã xây lên một ngôi đền
về quá khứ và thường đến đó
nơi họ than khóc kỳ lạ
Thờ phượng.
.
Khởi đầu của
Hạnh phúc là gì?
Đó là khi bạn ngưng mộ đạo
Như Thế.

---- Hafiz
.
ĐIỆU MÚA VĨNH CỬU

Tôi hạnh phúc ngay cả trước khi tôi có lý do.
Tôi tràn đầy ánh sáng ngay cả trước khi bầu trời
Có thể chào mặt trời hay mặt trăng.
 
Các bạn đồng hành thân mến,
Chúng ta trong tình yêu Thượng đế
Đã từ rất xa xưa, rất xa xưa
 
Bây giờ Hafiz có thể làm gì chỉ trừ Vĩnh Cửu
Vào Điệu Múa!

---- Hafiz
  
NHÀ THƠ KABIR 
 
Nhà thơ Kabir (1440 – 1518) của dòng văn học Sufi là người Ấn Độ, nổi tiếng với câu, “Dòng sông chảy trong bạn cũng chảy trong tôi.” Có rất nhiều truyền thuyết, dị bản về sự ra đời, cuộc sống và cái chết của Kabir, một trong những nhà thơ và nhà thần bí được trích dẫn nhiều nhất ở Ấn Độ. Bản thân sự ra đời của ông cũng là một điều bí ẩn, một số người nói rằng anh ta là con trai của một góa phụ Bà la môn, những người khác cho rằng anh ta được sinh ra từ một trinh nữ, mặc dù điều mọi người cùng đồng ý là Kabir lớn lên trong một gia đình thợ dệt Hồi giáo. Anh ta chưa bao giờ được học hành chính quy và có truyền thuyết nói Kabir gần như mù chữ hoàn toàn. Theo truyền thuyết này, chữ duy nhất mà anh từng học cách viết là "Rama."
 
_05 poet KABIR
Ba bìa sách 3 tuyển tập thơ Kabir.
  
Có truyền thuyết nói rằng ông đã từ trần năm 120 tuổi. Có một truyền thuyết nổi tiếng về cái chết của ông. Khi Kabir qua đời, những người theo đạo Hindu và đạo Hồi của ông bắt đầu giành nhau làm những nghi thức cuối cùng. Khi họ vén tấm vải che xác Kabir lên, họ thấy xác biến mất và chỉ còn là những bông hoa. Những người theo Hồi giáo chôn cất một nửa số hoa theo nghi thức của họ và những người theo đạo Hindu hỏa táng một nửa hoa còn lại. Kabir được đạo Hindu phong là một vị thánh trong hệ phái Bhakti. Thơ của Kabir cũng được xuất hiện trong Kinh thánh đạo Sikh. Có ít nhất một bài thơ của Kabir mang phong cách Phật giáo, với câu hỏi làm thế nào từ bỏ Maya (bức màn hư ảo) và nhà thơ tự trả lời là khi rời được Tham, Sân và Si; chữ “brother” trong bài sẽ được dịch dưới đây là “sư huynh.”
 
Kabir sống trong thời kỳ có nhiều biến động chính trị ở Ấn Độ. Cuộc sống của Kabir xoay quanh Kashi, còn được gọi là Banaras (Varanasi). Truyền thuyết kể rằng Kabir thực sự là con trai bị bỏ rơi của một góa phụ Bà la môn, và được tìm thấy bởi một thợ dệt Hồi giáo tên là Niru, người này đã nhận nuôi cậu bé và dạy cậu ta nghề thợ dệt. Kabir thông qua những câu thơ mang tư tưởng thần bí phần lớn nêu lên sự thờ phượng và tưởng nhớ đến Đấng tối cao trong nội tâm. Đối với ông, sự thờ phượng đích thực chỉ ở bên trong. Dưới đây là vài bài thơ tiêu biểu.
  
CÓ MỘT MẶT TRĂNG TRONG THÂN TÔI

Có một mặt trăng trong thân tôi,
nhưng tôi không thể nhìn thấy trăng
Một mặt trăng và một mặt trời.
Một cái trống chưa bao giờ được tay chạm vào
để đánh lên, và tôi không thể nghe thấy nó!
.
Khi nào anh còn lo lắng về chuyện sẽ chết khi nào,
và về những gì anh sở hữu có là của anh,
tất cả những gì anh làm đều là không.
Khi lòng yêu thương “cái tôi” và “cái của tôi” chết đi
khi đó công việc của Bậc Thầy hoàn tất.
.
Mục đích làm việc là để học
khi bạn biết điều đó, việc làm đã kết thúc.
Hoa táo hiện ra để làm thành quả táo, khi thời điểm
đó đến, cánh hoa sẽ rơi.
.
Mùi xạ hương ở bên trong con nai,
nhưng nai không tìm xạ hương:
nai lang thang tìm cỏ.

---- Kabir
   .
HÃY NÓI CHO TÔI BIẾT, SƯ HUYNH ƠI

Hãy nói cho tôi biết, sư huynh ơi
làm thế nào tôi có thể từ bỏ Maya?
Khi tôi từ bỏ việc buộc ruy băng,
tôi vẫn buộc áo quanh mình.
Khi tôi từ bỏ việc buộc áo,
Tôi vẫn che thân trong những nếp gấp của nó.
 
Vì vậy, khi tôi từ bỏ đam mê,
Tôi thấy rằng sân giận vẫn còn;
 
Và khi tôi từ bỏ sân hận,
lòng tham vẫn ở với tôi;
 
Và khi lòng tham bị khuất phục,
niềm tự hào và vinh quang vẫn còn;
 
Khi tâm được tách rời và ném Maya đi,
nó vẫn bám vào chữ nghĩa.
 
Kabir nói, 'Hãy nghe tôi, Sadhu thân mến!
Con đường chân thực hiếm khi được tìm thấy.'

– Kabir
          .
KHI NGÀY ĐẾN

Khi Ngày đến -
Ngày mà tôi đã sống và chết vì đó —
Ngày không có trong bất kỳ lịch nào —
Mây nặng trĩu yêu thương
Tắm cho tôi với tràn ngập hoang dã.
Trong tôi, hồn tôi ướt đẫm.
Quanh tôi, ngay cả sa mạc cũng xanh tươi.  

---- Kabir
     .
NHÀ THƠ RABIA AL BASRI
 
Đại sư tỷ của làng thơ Sufi thần bí là Rabia al Basri (717–801), cũng là một nhà thơ tiên phong đã để lại những lời dạy phong phú về tình yêu Thần thánh. Không có nhiều thông tin về Rabia al Basri, ngoại trừ việc cô sống ở thành phố Basra ở Iraq, vào nửa sau của thế kỷ thứ 8 theo Tây lịch. Cô sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó. Nhiều chuyện kể tâm linh gắn liền với cô là những thực tế kết hợp với truyền thuyết. Bản thân nhà thơ Rabia đã không để lại bất kỳ tác phẩm chữ viết nào. Tuy nhiên, những bài thơ truyền miệng của cô sau này được viết ra, chúng thường thể hiện chủ đề về Tình yêu thiêng liêng mãnh liệt. Thí dụ như mấy dòng trích từ một bài thơ của Basri:
 
Không có Ngài — Đời con, Tình yêu của con —
Tôi sẽ không bao giờ lang thang qua những đất nước vô tận này.
Ngài đã tuôn đổ biết bao hồng ân cho con,
Đã cho con rất nhiều ưu đãi, cho con quá nhiều quà tặng -
Con tìm khắp mọi nơi cho tình yêu của Ngài -
Rồi đột nhiên tràn ngập lòng con.

---- Rabia al Basri (trích từ bài, My Joy)
 
Sau cái chết của cha cô, nạn đói xảy ra ở Basra, và trong thời gian đó, cô bị chia cắt khỏi gia đình. Không rõ bằng cách nào mà cô lại đi trong một đoàn lữ hành bị bọn cướp bắt giữ. Cô bị bọn cướp bắt và bán làm nô lệ. Chủ nhân đã giao việc, và cô làm rất chăm chỉ, nhưng vào ban đêm, sau khi xong việc, cô Rabia cầu nguyện. Đôi khi, cô dành cả đêm để cầu nguyện và thường nhịn ăn vào ban ngày. Một ngày nọ, người chủ nhà theo dõi sự sùng kính của cô. Có một ánh sáng thiêng liêng bao phủ cô khi cô cầu nguyện. Bị sốc khi bắt giữ một người ngoan đạo như vậy làm nô lệ, ông đã trả tự do cho cô.
 
_06 poet BASRI
Thơ của Basri, một nhà thơ nữ thần bí Hồi giáo Sufi, được nhiều học giả dịch ra Anh văn. Bìa 3 sách.
 
Thế rồi Rabia đi vào sa mạc để cầu nguyện và trở thành một nhà khổ hạnh. Không giống như nhiều nhà thần bí Sufi, cô không học trực tiếp từ một người thầy, mà chỉ hướng về chính Thượng đế. Suốt đời cô, nổi bật là mối tình của cô hướng về Thượng đế. Sống nghèo và khổ hạnh là những người bạn đồng hành không ngừng của cô. Cô không có gì nhiều ngoài một cái bình vỡ, một chiếc chiếu cói và một viên gạch mà cô dùng làm gối. Khi danh tiếng của cô tăng lên, nhiều người tới xin làm đệ tử. Mặc dù cô có nhiều lời đề nghị xin kết hôn, và có một lời xin cầu hôn từ vị Thị trưởng Basra (Amir of Basra), cô đều đã từ chối – nói rằng vì cô không có thời gian trong đời cho bất cứ điều gì khác ngoài Thượng đế.
 
Tuy nhiên, một điểm rất cách mạng trong thần học Hồi giáo của thế kỷ thứ 8 là, nhà thơ Rabia là người đầu tiên đưa ra ý tưởng rằng Thượng đế nên được yêu thương vì chính Thượng đế chứ không phải vì sợ hãi. Nhà thơ nữ này dạy rằng sự sám hối là một món quà từ Thượng Đế bởi vì không ai có thể sám hối trừ khi Thượng Đế đã chấp nhận người ấy và ban cho người ấy món quà sám hối này. Đối với bản thân, cô hướng đến một lý tưởng cao cả hơn, tôn thờ Thượng đế không phải vì sợ Địa ngục hay hy vọng vào Thiên đường, vì cô coi tư lợi như vậy là không xứng đáng với tư cách là tôi tớ của Thượng đế. Sau đây là hai bài thơ điển hình của nhà thơ Rabia al Basri.
  
NẾU CON TÔN THỜ NGÀI

Nếu con tôn thờ Ngài vì sợ Hỏa Ngục,
xin hãy thiêu con trong Hỏa Ngục!
Nếu con tôn thờ Ngài vì khao khát Thiên đường,
xin hãy khóa cổng Thiên đường ngăn con.
Nhưng nếu con tôn thờ ngài vì chính riêng Ngài
xin đừng từ chối con Vẻ đẹp vĩnh cửu của Ngài.

---- Rabia al Basri
    .
THỰC TẠI

Trong tình yêu, không có gì hiện hữu giữa trái tim và trái tim.
Lời nói được sinh ra từ khao khát,
Mô tả thực là từ hương vị thực.
Người nào nếm, người đó biết;
Người nào giải thích, chỉ là lời nói dối.
Làm thế nào bạn có thể mô tả hình thức thực của Một cái gì
Mà trong hiện hữu đó, bạn đã bị biến mất?
Và trong hiện hữu đó, bạn vẫn còn hiện hữu?
Và ai sống như một dấu hiệu cho cuộc hành trình của bạn?

---- Rabia al Basr 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lần này không có hy vọng nào cho ông nữa, đó là cú đột quỵ lần thứ ba. Đêm này qua đêm khác, tôi đi ngang qua ngôi nhà (lúc đó là ngày nghỉ) nhìn vào ô cửa sổ sáng đèn, và đêm này qua đêm khác, tôi thấy nó sáng cùng một cách, mờ nhạt, rầu rầu...
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió. Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?”
“Quê người trên đỉnh Trường sơn Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” Lần đầu tiên tôi cảm nhận Tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn ở một góc nhìn mới. Lòng tôi như đứa trẻ thơ được trở về trong vòng tay mẹ hiền sau bao năm lưu lạc. Trường Sơn trước mắt tôi thật thơ mộng, u trầm và hùng vĩ. Núi tiếp núi. Từng đàn cò trắng lượn bay giữa những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận, ngút ngàn. Dường như mây trời và khói núi quyện vào nhau để xoá nhoà đi ranh giới giữa mộng và thực. Theo dấu chân Người, tôi tìm về Trường Sơn. Để nhìn thẳng vào chân diện mục của Trường Sơn và cũng để “gởi một nỗi hờn thiên thu”.
Không biết vì sao tôi có cái máu thích tư tưởng triết lý từ hồi còn trẻ. Do vậy, tôi rất mê đọc sách triết, sách tư tưởng, và dĩ nhiên sách Phật. Cũng vì cái “nghiệp dĩ” ấy mà khi lần đầu tiên được theo Ôn Từ Quang (tức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phúc Hộ) vào tùng chúng an cư tại Viện Hải Đức, Nha Trang, vào mùa hè năm 1976, tôi thường vào thư viện để kiếm sách đọc.
Câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” của thi hào Nguyễn Du, nhiều người từng nghe qua, nhưng có thể không rõ xuất xứ ở đâu. Đó là hai câu kết trong bài thơ thất ngôn bát cú “Độc Tiểu Thanh Ký” (Đọc Bút Ký Tiểu Thanh), trong “Thanh Hiên Thi Tập”...
Lần đầu tiên xảy ra vào mùa đông sau khi cô tròn mười sáu tuổi. Ngôn ngữ đã châm chích và giam cầm cô như quần áo làm từ hàng ngàn cây kim đột nhiên biến mất. Những từ ngữ vẫn đến được tai, nhưng giờ đây một lớp không khí dày đặc đệm khoảng không giữa ốc tai và não. Bị bao bọc trong im lặng mù sương, những ký ức về chiếc lưỡi và đôi môi đã từng sử dụng phát âm, về bàn tay đã nắm chặt cây bút chì, trở nên xa vời. Cô không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ nữa. Di chuyển, không cần ngôn ngữ và hiểu, không cần ngôn ngữ, như cô đã từng làm trước khi học nói - không, trước khi có được sự sống. Im lặng, hấp thụ dòng chảy thời gian như những quả bóng bông, bao bọc cơ thể cả bên ngoài lẫn bên trong.
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
Giải Nobel Văn học năm 2024 đã được trao cho Han Kang, một tác giả người Nam Hàn, vì "văn xuôi thơ mãnh liệt đối mặt với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người". Han Kang sinh ra tại Gwangju, Nam Hàn, cô chuyển đến Seoul khi mới mười tuổi. Cô học văn học tại Đại học Yonsei. Các tác phẩm của cô đã giành được Giải thưởng Văn học Yi Sang, Giải thưởng Nghệ sĩ trẻ ngày nay và Giải thưởng Tiểu thuyết Văn học Nam Hàn. The Vegetarian (Người Ăn Chay), tiểu thuyết đầu tiên của cô được dịch sang tiếng Anh, Portobello Books xuất bản năm 2015 và giành Giải thưởng Man Booker Quốc tế năm 2016. Cô sống tại Seoul. “Trái Cây Của Vợ Tôi”, Han Kang viết câu chuyện này vào năm 1997, cũng là tiền thân trực tiếp cho cuốn tiểu thuyết The Vegetarian năm 2007 – trong cả hai tác phẩm, một cặp vợ chồng ở độ tuổi đầu ba mươi thấy cuộc sống vốn bình lặng bị xáo trộn khi người vợ biến dạng thân thể.
Nhà văn nữ Han Kang người Nam Hàn đã đoạt giải Nobel Văn học 2024 nhờ “phong cách văn chương không chỉ đậm chất thơ mà còn sâu sắc, ý nghĩa, phản ánh những chấn thương lịch sử và thân phận mong manh của cuộc sống con người.” Ở tuổi 53, bà trở thành nữ nhà văn Nam Hàn đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học, đồng thời là nữ nhà văn thứ 18 trong tổng số 121 nhà văn đoạt giải thưởng danh giá này cho đến nay. Bên cạnh sự nghiệp văn chương, Han Kang còn là một nhạc sĩ và có niềm đam mê với nghệ thuật thị giác (visual art).
Ba cuốn sách: Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”; Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”, và Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư, đã được ra mắt lần đầu tiên tại Coffee Factory, Westminster, Nam California vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 12 tháng 10 năm 2024, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, các bằng hữu xa gần, các cơ quan truyền thông báo chí, và thân hữu của nhà văn Trịnh Y Thư. Mặc dù một buổi chiều Thứ Bảy với nhiều tổ chức sinh hoạt của các hội đoàn đoàn thể, các nhạc hội vận động tranh cử của các ứng cử viện gốc Việt đã tổ chức cùng một lúc, thế mà số người đến tham dự hơn 150 thân hữu và quan khách đã ngồi chật bên trong quán café, có lẽ vì Trịnh Y Thư là người đã sống và lăn lộn với nền văn học hải ngoại hơn mấy chục năm nay, cũng có lẽ vì Ông là một người bạn chân tình luôn hết lòng với bạn văn nghệ và được mọi người hết mực yêu mến.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.