Hôm nay,  

Về Khuyến Cáo Của WHO Tránh Dùng Các Chất Ngọt Thay Thế Đường

26/05/202300:00:00(Xem: 6304)

cac chat ngot
Các chất ngọt thay thế đường
  
Ngày 15 tháng 5 năm 2023, Cơ quan Y tế Quốc tế WHO đưa ra hướng dẫn mới nhất của họ về chất làm ngọt thay thế đường (non-sugar sweeteners) và khuyên không nên dùng các chất này để giảm cân.
 
WHO đã tiến hành một cuộc đánh giá có hệ thống với 283 nghiên cứu về chất tạo vị ngọt mà không dùng đường. Nghiên cứu tổng quan này bao gồm cả các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và nghiên cứu quan sát (randomized controlled trials and observational studies).
 
Dựa trên kết quả từ các nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, chất làm ngọt không đường chỉ có tác động "thấp" trong việc giảm trọng lượng cơ thể và lượng calo hấp thụ so với đường. Chúng cũng không có tác dụng đối với các chỉ dấu trung gian (intermediate markers) của bệnh tiểu đường, chẳng hạn như mức insulin hoặc glucose.
 
Tương tự như vậy, các nghiên cứu quan sát cho thấy chất làm ngọt thế đường có tác động thấp đến trọng lượng cơ thể và mô mỡ và không ảnh hưởng đến lượng calo. Tuy nhiên, những nghiên cứu này phát hiện ra rằng chất làm ngọt có liên quan đến sự gia tăng nhỏ trong nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2, huyết áp cao, đột quỵ và bệnh tim. Đối với ung thư bàng quang (bladder cancer) và tử vong nói chung không phân biệt nguyên nhân, nguy cơ cũng gia tăng nhưng ở mức rất thấp.
 
Theo WHO, tiêu thụ chất làm ngọt thế đường "không mang lại bất kỳ lợi ích lâu dài nào trong việc giảm mỡ cơ thể ở người lớn hoặc trẻ em" và có thể có "tác dụng không mong muốn tiềm ẩn", chẳng hạn như tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 và bệnh tim mạch.
 
Dựa trên các bằng chứng hiện có, WHO khuyến nghị mọi người tránh tiêu thụ "tất cả các chất làm ngọt không có giá trị dinh dưỡng, nguồn gốc tổng hợp hay tự nhiên hoặc đã được biến đổi, và không được phân loại là đường, chẳng hạn như acesulfame K, aspartame, advantame, cyclamate, neotame, saccharin, sucralose, Stevia.(Khuyến nghị này không áp dụng cho những người mắc bệnh tiểu đường từ trước vì thiếu dữ liệu về nhóm này.)
 
"Thay thế đường tự do (free sugar, đường bỏ thêm vào thức ăn uống cho ngọt thêm) bằng chất làm ngọt không đường [NSS/non Sugar Sweeteners] không giúp kiểm soát cân nặng về lâu dài. Mọi người cần xem xét các cách khác để giảm lượng đường tự do, chẳng hạn như tiêu thụ thực phẩm có đường tự nhiên, như trái cây hoặc thực phẩm và đồ uống không bỏ thêm đường," Francesco Branca, giám đốc dinh dưỡng và an toàn thực phẩm của WHO cho biết. "NSS không phải là yếu tố thiết yếu trong chế độ ăn uống và không có giá trị dinh dưỡng. Mọi người nên giảm hoàn toàn độ ngọt trong chế độ ăn uống ngay từ khi còn nhỏ để cải thiện sức khỏe của mình."
 
Trong một tuyên bố, đại diện cho kỹ nghệ thực phẩm, Hội đồng kiểm soát calo (CCC) cho biết họ hoàn toàn không đồng ý với khuyến nghị của WHO, cho rằng nó "không cung cấp bức tranh đầy đủ về hiệu quả của các thành phần này và có khả năng tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng."
 
Hiệp hội Chất làm ngọt Quốc tế (ISA) cũng bác bỏ khuyến nghị của WHO, cho rằng đó là một sự bất lợi cho người tiêu dùng.
 
ISA cho biết: “Chất làm ngọt có hàm lượng calo thấp/không có calo là một trong những thành phần được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất trên thế giới và tiếp tục là một công cụ hữu ích để kiểm soát bệnh béo phì, tiểu đường và các bệnh về răng miệng”. "Họ cung cấp cho người tiêu dùng một giải pháp thay thế để giảm lượng đường và calo với hương vị ngọt ngào mà họ biết và mong đợi.
 
Các chất ngọt thay thế đường
 
Các chất ngọt thay thế đường gồm những chất nhân tạo (artificial sweeteners, edulcorant artificiel) như sacharin, aspartame và sucralose, và những chất “thiên nhiên” như stevia và “monk fruit extract” (những thức ăn mang nhãn “no artificial sweetener” thường có chứa những chất này).
 
Các chất này ngọt gấp nhiều lần đường ăn thường, cho nên chỉ cần một lượng nhỏ hơn nhiều lần để tạo ra vị ngọt tương đương, do đó đem lại ít calories hơn; ví dụ bịnh nhân tiểu đường cần giảm thiểu lượng đường được tiêu thụ, cũng như những người thích đồ ăn uống ngọt nhưng muốn giảm cân nặng. Cơ quan thực phẩm và thuốc Hoa kỳ FDA đã chấp thuận cho một số “food additive” thường dùng sau đây ở Mỹ:
 
Các chất nhân tạo:
 
1) Saccharin, ngọt gấp 300 lần đường ăn, được phát minh năm 1879 và giúp cho người ta nhịn đường thường khan hiếm trong 2 thế chiến nửa đầu thế kỷ thứ 20. Năm 1977, căn cứ trên những khảo cứu trên chuột gợi ý saccharin có thể gây ung thư bàng quang ( bladder) trên chuột, FDA đề nghị cấm dùng chất này trong thực phẩm. Tuy nhiên quốc hội Hoa Kỳ cho trì hoãn lịnh này lại, và luật bắt buộc phải ghi trên bao bì các thực phẩm có chứa saccharin "Dùng sản phẩm này có thể nguy hại cho sức khỏe của bạn. sản phẩm này chứa saccharin là một chất được chứng tỏ là gây ung thư trên thú vật trong phòng thí nghiệm". Đến năm 2001, Quốc hội Mỹ bãi bỏ nhãn cảnh báo này. Cho đến nay, các khảo cứu không cho thấy nguy cơ gây ung thư vì dùng saccharin.
 
2) Aspartame (NutraSweet, Equal), ngọt hơn đường ăn 180 lần. Năm 1965, James M. Schlatter, một hoá học gia tình cờ thấy ngọt ở đầu ngón tay lúc liếm ngón tay để lật trang giấy, và từ đó khám phá ra chất aspartame, ngón tay ông ta vô tình bị dính một trong số những chất hoá học mà ông đã tổng hợp trong mục đích khảo cứu thuốc trị bịnh bao tử. Trong aspartame có chất aspartic acid và phenylalanine, là hai chất amino acid có mặt trong đủ loại thức ăn của chúng ta. Aspartame được biến dưỡng thành methanol, phenylalanine và aspartic acid. Một số hiếm bịnh nhân mắc chứng bẩm sinh, di truyền phenylketonuria (PKU, nghĩa là trong nước tiểu có chứa chất phenyketone), họ không tiêu thụ phenylalanine được, do đó nồng độ chất này có thể lên cao trong máu nếu các em bé bị bịnh này mà không tránh thức ăn có chứa phenylalanine. Bịnh nhân PKU có mùi hôi như chuột, bị triệu chứng thần kinh như làm kinh, chậm phát triển, triệu chứng tâm thần, hành vi rối loạn. Ở Mỹ, các bé sơ sinh được thử máu và bịnh được phát hiện từ lúc mới sinh, được theo dõi thích hợp. Bịnh nhân phải tránh mọi thức ăn có chứa phenylalanine, cũng như aspartame.
 
Trước đây, có nghi ngờ rằng aspartame dính líu tới u bướu não (giai đoạn 1975-1992), cũng như nghi ngờ aspartame gây ung thư máu (leukemia, lymphoma) ở chuột được cho tiêu thụ một lượng rất lớn (tương đương với người ta uống 8-2000 lon diet coca/ngày); tuy nhiên FDA xét rằng những dữ kiện này không đủ giá trị và những nghiên cứu trên 1/2 triệu người về hưu dùng nước uống có chứa aspartame cho thấy không có việc gia tăng ung thư não hay máu.
 
Gần đây nhất, năm 2022, nghiên cứu NutriNet-Santé đã báo cáo rằng những người trưởng thành tiêu thụ lượng aspartame cao hơn có khả năng mắc ung thư nói chung cao hơn một chút (nguy cơ gấp 1,15 lần), ung thư vú (nguy cơ gấp 1,22 lần) và ung thư liên quan đến béo phì (nguy cơ gấp 1,15 lần) rủi ro) so với những người không tiêu thụ aspartame.
 
Acceptable daily intake [ADI]: 40 mg/kg of body weight. (ADI: Lượng dùng hàng ngày có thể chấp nhận được mà không gây hại đáng kể về sức khỏe thường do các cơ quan quốc tế như cơ quan Lương Nông [FAO] của Cơ quan Y tế Quốc tế Liên Hiệp Quốc [WHO] quy định.)ADI thường 100 lần ít hơn (100 lần thấp hơn) mức có thể gây ra những lo ngại về sức khỏe.
 
3) Acesulfame potassium (Sunett); ngọt hơn đường 200 lần
 
4) Sucralose (Splenda), ngọt hơn đường 600 lần, vị giống như đường, chế biến từ đường ăn, nhưng vì ruột không hấp thụ được nên không cung cấp calories cho cơ thể.(ADI 9-15 mg/kg of body weight).
 
Hiện nay, trong nhóm các chất ngọt nhân tạo, Splenda chiếm thị phần cao hơn hết, hơn Equal (aspartame) chừng 4 lần.
 
Hàm lượng năng lượng trong một khẩu phần đơn (serving, gói 1g) Splenda là 3,36 kcal, bằng 31% so với một khẩu phần đơn (gói 2,8 g) đường hạt (granulated sugar, 10,8 kcal). Ở Mỹ, gói được dán nhãn hợp pháp là "không calo" (Zero calories) vì theo quy định nếu hàm lượng dưới 5 cal, chính phủ cho phép ghi trên label là zero calories), tuy nhiên nếu bạn dùng 3,2 gói Splenda (3,36 kcal mỗi gói) thì bạn sẽ ăn lượng calo tương đương như ăn một gói đường thường (2,8 gram với 10,8 kcal). Gói Splenda chứa một lượng sucralose tương đối nhỏ, phần lớn chất này được không được chuyển hóa, không được cơ thể tiêu thụ. Tuy nhiên "các chất tạo khối" (bulking agent) là dextrose hoặc maltodextrin như các loại carbohydrate khác, dextrose và maltodextrin được cơ thể tiêu thụ và có chứa 3,75 kcal mỗi gam. Nói cách khác, mặc dù ghi là zero calories, nếu chúng ta dùng Splenda (và Equal cũng vậy) nhiếu gói trong ngày, lượng calorie ( từ dextrose và maltodextrin) cũng có thể đáng kể.
 
5) Sodium cyclamate: cyclamate, không được dùng tại Hoa kỳ, nhưng được bán lẻ tại Canada, (trong lúc saccharine cần toa mới mua được ở Canada).
 
Các chất thiên nhiên
 
1) Stevia (trong Rebiana, Truvia, PureVia) là một chất làm ngọt tự nhiên và thay thế đường, có nguồn gốc từ lá của cây Stevia rebaudiana, có nguồn gốc từ Paraguay và Brazil (Nam Mỹ).
 
Các hợp chất hoạt động là steviol glycoside (glycoside gồm một đường đơn giản kết hợp với một hợp chất khác; ở đây glucoside chủ yếu là stevioside và rebaudioside), có độ ngọt gấp khoảng 50 đến 300 lần đường, ổn định nhiệt, ổn định pH và không thể lên men. Cơ thể con người không chuyển hóa glycoside trong stevia, vì vậy nó được dùng như một chất làm ngọt không có giá trị dinh dưỡng. Hương vị của Stevia bắt đầu chậm hơn và kéo dài hơn so với đường, và ở nồng độ cao, một số chất chiết xuất của nó có thể có dư vị được mô tả là giống cam thảo hoặc đắng. Stevia được sử dụng trong các sản phẩm thực phẩm và đồ uống được gọi là “ ít đường” và “ ít calo” (sugar and calorie reduced food and beverage products)
 
Tình trạng pháp lý của stevia như một chất phụ gia thực phẩm (food additive) hoặc bổ sung chế độ ăn uống (nutritional supplement) khác nhau giữa các quốc gia. Tại Hoa Kỳ, một số chiết xuất stevia glycoside có độ tinh khiết cao được công nhận là an toàn một cách tổng quát (GRAS, generally recognized as safe) và có thể được tiếp thị và bổ sung hợp pháp vào các sản phẩm thực phẩm, nhưng lá stevia và chiết xuất thô không được công nhận là GRAS hoặc Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) phê duyệt để sử dụng trong thực phẩm. Liên minh Châu Âu đã phê duyệt chất phụ gia Stevia rebaudiana vào năm 2011, trong khi ở Nhật Bản, stevia đã được sử dụng rộng rãi làm chất tạo ngọt trong nhiều thập kỷ.
 
Steviol có thể gây đột biến (mutation) tế bào nhẹ ở liều cao, nhưng trên người thật thì chúng ta chưa có bằng chứng. Vào tháng 8 năm 2019, FDA Hoa Kỳ đã đưa ra cảnh báo nhập khẩu đối với lá Stevia và chiết xuất thô (crude extract) – không được công nhận là an toàn (GRAS), (phân biệt với stevia glycoside có độ tinh khiết cao)– và đối với thực phẩm hoặc thực phẩm bổ sung có chứa chúng do lo ngại về tính an toàn và khả năng gây độc.
 
Các cơ quan có thẩm quyền như Cơ quan Y tế Quốc tế, Cơ Quan An toàn Thực phẩm Châu Âu giới hạn mức tiêu thụ an toàn cho steviol glycoside là 4mg/kg cân nặng/ngày.
 
2) “La hán quả” hay “Monk fruit”( luo han guo, (羅漢果)) là một loại dưa chừng 5-7 cm, có nguồn gốc ở miền nam Trung Quốc, từng được dùng từ lâu trong đông y. Chất làm ngọt từ trái cây này là mogroside, là phần ngọt nhất của trái. Người ta nghiền trái cây, chiết xuất nước trái cây và sau đó chiết xuất mogroside từ nước trái cây. Mogroside ngọt hơn đường sucrose hơn 100 lần, nhưng không cung cấp calories vì không được ruột hấp thụ. Chất ngọt thay đường này mới trên thị trường Mỹ
 
Hiện nay, có rất nhiều tranh cãi về vấn đề dùng chất ngọt thay thế đường. Tuy nhiên có thể nêu vài điểm chính:
 
1) Có chuyên gia cho rằng dùng các chất thay thế đường làm cơ thể mất khả năng đếm lượng calories được thu nạp, do đó người uống chất thay thế đường lại ăn thứ khác nhiều hơn, và cuối cùng lại lên cân nhiều hơn. Ví dụ đi tiệm ăn fast food, uống diet coke, nhưng vì ngon miệng và tự tin (là mình kiêng đường ), nên lại ăn một cái hamburger lớn cho...đã miệng. Nếu như vậy thì không xuống cân được, và hành vi "lành mạnh" là uống nước lạnh, hay nước trà không đường, và chỉ ăn nếu mình đói, hay chỉ ăn một nửa hay một phần tư cái hamburger thôi. Nói một cách khác, tránh nước ngọt, và ăn vừa đủ no, hay đủ bớt đói, nếu muốn sụt cân.
 
2) Vì đường nhân tạo rất ngọt có thể làm chúng ta không còn tha thiết ăn những món lành mạnh hơn có giá trị dinh dưỡng cao hơn (ví dụ trái cây tươi có thể không ngọt bằng, nhưng ngon hơn, cung cấp một số năng lượng cần thiết, chứa nhiều sợi, nhiều vitamin và chất chống oxy hoá).
 
Ăn thức ăn ngọt nhờ chất nhân tạo có thể làm cho chúng ta mất khả năng tự chế trong việc ăn đồ ngọt, vì trong tâm lý chúng ta không còn liên hệ ăn uống đồ ngọt với tiếp nhận quá nhiều calories.
 
3) Có những bằng chứng mới xuất hiện cho thấy chất làm ngọt nhân tạo có thể gây ra tình trạng cơ thể khó dung nạp glucose (glucose intolerance) thông qua những thay đổi trong hệ vi sinh vật đường ruột (gut microbiome), do đó lại làm tăng nguy cơ bị tiểu đường, bệnh tim gia tăng (những bệnh mà chúng ta muốn tránh lúc dùng những chất này). Một nghiên cứu cho thấy chất làm ngọt nhân tạo có thể làm tăng đặc tính gây bệnh của vi khuẩn E. coli và E. faecalis là những vi khuẩn có ích trong ruột bình thường.
 
FDA làm việc kỹ lưỡng và từ lâu từng xét đi xét lại nhiều lần các lợi hại có thể có của các chất thay thế đường. Hiện nay FDA vẫn chấp thuận các chất này được dùng cho thực phẩm tại Mỹ, cũng như những cơ quan kiểm soát thực phẩm tương tự khác (European Food Safety Authority của Châu Âu, UK Food Standard Agency, Canada Health, vv). Tuy nhiên, các quyết định này có thể sẽ thay đổi nếu có những kết quả nghiên cứu mới đáng tin cậy.
 
Ngoài ra, vì muốn giới hạn đường thật trong các sản phẩm ăn uống của mình, các nhà sản xuất các đồ ăn uống chế biến càng ngày càng dùng chất thay thế đường nhiều hơn trước, kể cả các đồ ăn uống của trẻ em (low calorie cereal, juice, yoyurt). Hàn Lâm Viện Nhi Khoa (AAP) Hoa Kỳ đang vận động để các chất thay thế đường được liệt kê trong bản thành phần kèm theo các thức ăn uống cho trẻ em.
Tuy nhiên, sau dịch Covid-19, càng ngày càng có nhiều thông tin về y khoa hay sức khỏe trái chiều, với ít nhiều động cơ kinh tế và chính trị trong mọi lãnh vực. Kỹ nghệ thức uống và thức ăn lại rất lớn, liên hệ đến hàng tỷ đô la hàng năm, trên toàn cầu.
 
Người tiêu thụ, và ngay cả giới bác sĩ cũng khó rút ra một kết luận xác đáng về mỗi tin tức, về mỗi “nghiên cứu” vừa được báo chí loan tin, kể cả các báo y học. Ví dụ, những tin tức nhấn mạnh về “biến chứng” của các chất thay thế đường có thể do kỹ nghệ đường (thiên nhiên) bảo trợ, những bản tin coi nhẹ các biến chứng này có thể do các hãng sản xuất bánh và nước ngọt (dùng đường giả) “sponsor” từ sau lưng.
 
Nói chung, trước đây, người ta cho rằng người tiêu dùng có thể an tâm dùng các thực phẩm có chứa các chất này trong giới hạn hợp lý (“acceptable daily intake”, [ADI], nghĩa là không áp dụng cho các liều quá cao). Tuy nhiên theo khuyến cáo mới nhất của Cơ Quan Y tế Quốc tế thì không nên dùng các chất thay thế đường vì cơ nguy gia tăng một số bệnh như tiều đường, ung thư và tử vong, mặc dù sự gia tăng này nhỏ. WHO cho biết khuyến nghị mới này áp dụng cho tất cả mọi người, trừ những người đã mắc bệnh tiểu đường.
 
Cuộc tranh luận sẽ tiếp diễn, nhất là kỹ nghệ thực phẩm sẽ phản kháng kịch liệt và phản bác. Nên hỏi ý kiến của bác sĩ nếu mình là bệnh nhân bệnh tiểu đường, trước khi dùng cho trẻ em và người mang thai, và chỉ dùng những chất được công nhận là an toàn.Tốt hơn hết là chọn thức ăn tươi, ít chế biến, giảm thiểu đường và các chất thay thế đường, tập cho mình quen với những thức ăn ít hoặc không có vị ngọt.
 
BS Hồ Văn Hiền
(17/5/2023)
 
 Tham khảo:
 
1) American Academy of Pediatrics: Pediatric Nutrition Handbook, 6th Edition
6) Assessment of Intakes of Artificial Sweeteners in Children With Type 1 Diabetes Mellitus
Lisa Devitt1 BSc RD, Denis Daneman1,2 MB BCh FRCPC, Jennifer Buccino1 BASc RD CDE
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.