Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Pablo Neruda: Cái Chết Uẩn Khuất Của Một Nhà Thơ

24/02/202300:00:00(Xem: 2441)
 
Pablo Neruda
Sau một cuộc điều tra kéo dài hàng thập niên, một nhóm chuyên gia pháp y đã đưa ra báo cáo cuối cùng về hài cốt được khai quật của nhà thơ nổi tiếng người Chile. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
 
Đã năm mươi năm trôi qua, nguyên nhân thực sự về cái chết của nhà thơ Pablo Neruda vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ đối với nhiều người trên thế giới. Ông đột ngột lìa đời sau cuộc đảo chánh năm 1973 của Chile.
 
Pablo Neruda không chỉ là nhà thơ từng đoạt giải Nobel danh giá, mà còn là một trong những nhà hoạt động chính trị có ảnh hưởng nhất ở Chile. Pablo Neruda công khai theo chủ nghĩa cộng sản, thẳng thắn ủng hộ và làm việc trong chính quyền của Salvador Allende, vị tổng thống cánh tả của Chile, cầm quyền từ năm 1970 đến năm 1973.
 
Chỉ vài tuần sau cuộc đảo chánh năm 1973, Pablo Neruda chết tại một phòng khám tư nhân, với nguyên nhân được xác định là do ung thư. Nhưng bấy lâu nay, cả thời gian và hoàn cảnh về cái chết của Pablo Neruda đều khiến người ta không khỏi nghi ngờ rằng liệu có phải có gì đó ‘mờ ám’ hay không.
 
Thời báo New York Times đã xem xét bản tóm tắt các phát hiện được tổng hợp bởi các chuyên gia pháp y quốc tế, họ đã kiểm tra hài cốt được khai quật của ông Neruda và xác định có vi khuẩn có thể gây chết người. Trong bản báo cáo, các khoa học gia xác nhận rằng vi khuẩn đã ở trong cơ thể nhà thơ khi ông lìa đời, nhưng cũng cho biết họ không thể phân biệt liệu đó có phải là do ông bị tiêm vào người hay do ăn đồ ăn bị nhiễm độc.
 
Những phát hiện này, một lần nữa, bỏ ngỏ câu hỏi liệu Pablo Neruda có bị sát hại hay không.
 
Pablo Neruda là ai?
 
Pablo Neruda là một nhà lập pháp, nhà ngoại giao và nhà thơ đoạt giải Nobel người Chile. Trước khi ông Allende lên làm tổng thống Chile vào năm 1970, ông Neruda được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của Mỹ Latinh và là phát ngôn nhân hàng đầu cho phong trào cánh tả của Chile.
 
Sinh ngày 12 tháng 7 năm 1904, Pablo Neruda lớn lên ở Parral, một cộng đồng nông nghiệp nhỏ ở miền nam Chile. Mẹ ông là một giáo viên, bà qua đời ngay sau khi sinh ông; cha ông là một nhân viên đường sắt, không ủng hộ niềm yêu thích văn chương của con trai. Dù vậy, ông Neruda bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi.
 
Trong suốt cuộc đời của mình, ông Neruda đã đảm nhận một số vị trí ngoại giao tại các quốc gia bao gồm Argentina, Mexico, Tây Ban Nha và Pháp. Ông tham gia các hoạt động chính trị cũng như làm thơ cho đến cuối đời.
 
Ông Neruda qua đời tại một phòng khám bệnh ở Santiago, thủ đô của Chile, ở tuổi 69. Cái chết của ông xảy ra chưa đầy hai tuần sau khi người bạn và đồng minh chính trị của ông, ông Allende thà tự sát chứ không đầu hàng. Chính quyền của ông Allende bị lật đổ vào tháng 9 năm 1973.
 
Pablo Neruda là một nhân vật chính trị thế nào?
 
Trong thời gian ở Barcelona với tư cách là một nhà ngoại giao, kinh nghiệm về Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha đã mang Neruda đến với một lập trường chính trị tích cực hơn. Về sau, ông có viết rằng: “Kể từ đó, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng trách nhiệm của nhà thơ là phải giữ vững lập trường của mình.”
 
Ông mất chức nhà ngoại giao vì ủng hộ Cộng Hòa Tây Ban Nha, vốn đã bị tan rã sau khi đầu hàng phe Chủ nghĩa dân tộc của Tướng Francisco Franco. Ông cũng đã vận động hành lang để cứu hơn 2,000 dân tị nạn, những người rơi vào cảnh lưu lạc khốn cùng bởi chế độ độc tài của ông Franco.
 
Ông Neruda là thành viên trọn đời của Đảng Cộng Sản, và chỉ phục vụ một nhiệm kỳ. Với tư cách là một thượng nghị sĩ, ông chỉ trích chính phủ của Tổng thống Gabriel González Videla, cầm quyền chính phủ Chile từ năm 1946 đến năm 1952, khiến ông phải sống lưu vong bốn năm.
 
Vào năm 1952, Neruda hồi hương để ủng hộ chiến dịch tranh cử tổng thống của ông Allende với tư cách một nhà văn cánh tả. Họ thất bại trong cuộc vận động tranh cử năm đó và trong hai kỳ bầu cử khác nữa. Đến năm 1970, ông Neruda được đề cử là ứng cử viên cho chức tổng thống Chile của Đảng Cộng Sản, nhưng ông đã rút lui để ủng hộ Allende – người trúng cử năm đó.
 
Tại sao Pablo Neruda lại được quan tâm nhiều như vậy?
 
Trong thế kỷ 20, Pablo Neruda là một trong những nhân vật nổi bật nhất của Mỹ La-tinh về cả thơ ca và hoạt động chính trị. Ông đã lớn tiếng kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp vào nước ngoài, thẳng thừng lên án Nội Chiến Tây Ban Nha và nhiệt tình ủng hộ Đảng Cộng Sản Chile. Sách của ông đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng.
 
Tuy nhiên, bản thân Neruda cũng là một nhân vật gây nhiều tranh cãi. Nhiều người chỉ trích ông về việc bỏ rơi đứa con gái bị chứng não úng thủy bẩm sinh. Cô bé đã qua đời ở tuổi lên 8 vào năm 1943. Và gần đây, ông cũng bị chỉ trích do đoạn miêu tả trong cuốn hồi ký kể về vụ tấn công tình dục một cô hầu gái.
 
Đâu là các tác phẩm đáng giá nhất của ông?
 
Pablo Neruda có khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Ông đã xuất bản hơn 50 ấn phẩm bằng thơ và văn xuôi, từ những bài thơ lãng mạn đến những lời vạch trần bộ mặt các chính trị gia Chile cũng như những trăn trở suy tư về một Tây Ban Nha bị tàn phá bởi nội chiến. Ông đã hoạt động nhiệt thành vì công bằng xã hội; ‘gia tài’ văn thơ phong phú của ông đã vang vọng khắp thế giới, khiến ông trở thành một biểu tượng trí tuệ của thế kỷ 20 ở Mỹ Latinh.
 
Pablo Neruda 2
“Yêu thì ngắn ngủi, mà lãng quên lại quá dài.” – Pablo Neruda, Love. (Nguồn: chụp lại từ YouTube)
 
Cuốn sách đầu tiên của Neruda được xuất bản vào năm 1923, lúc ông mới 19 tuổi, có tựa là “Crepusculario,” hay “Book of Twilight.” Một năm sau, Neruda phát hành “Veinte Poemas de Amor y una Canción Desesperada,” (“20 bài thơ tình và 1 bài ca tuyệt vọng”). Tuyển tập này đã giúp ông trở thành một nhà thơ lớn, và cho tới gần một thế kỷ sau, nó vẫn là tập thơ bán chạy nhất bằng tiếng Tây Ban Nha.
 
Những chuyến đi đó đây với tư cách là một nhà ngoại giao cũng ảnh hưởng đến tác phẩm của Neruda, như trong hai tập thơ có tựa đề “Residencia en la Tierra” (“Cư Ngụ Trên Trái Đất”). Và mối liên quan của ông với chủ nghĩa cộng sản đã được thể hiện rõ ràng trong cuốn sách “Canto General” (“Bài Ca Chung”), trong đó ông kể về lịch sử của Châu Mỹ từ góc nhìn của một người gốc Tây Ban Nha.
 
Tuy nhiên, cũng có thể chính lòng thành đối với chủ nghĩa cộng sản đã trì hoãn giải thưởng Nobel của Neruda. Mãi cho đến năm 1971, ông mới được trao giải Nobel cho toàn bộ tác phẩm của mình. Theo trang web của Nobel, ông đã sáng tác “những vần thơ với sức mạnh siêu nhiên thể hiện số phận và ước mơ của cả một lục địa.”
 
Những tranh cãi xung quanh cái chết của Pablo Neruda
 
Sau cuộc đảo chánh ở Chile, một trong những cuộc đảo chánh bạo lực nhất Mỹ Latinh, quân đội đã đột kích vào nơi ở của Neruda. Chính phủ Mexico đề nghị đưa ông và vợ ông, bà Matilde Urrutia, ra khỏi đất nước. Tuy nhiên, cuối cùng ông được đưa vào phòng khám Santa María vì bệnh ung thư tuyến tiền liệt.
 
Tối ngày 23 tháng 9 năm 1973, phòng khám báo cáo rằng ông Neruda qua đời vì suy tim. Sáng hôm đó, ông có gọi điện cho vợ và kể rằng mình bị ốm sau khi uống một số loại thuốc.
 
Năm 2011, Manuel Araya, từng là tài xế của ông Neruda, đã công khai tuyên bố rằng thời điểm đó, các bác sĩ tại phòng khám đã đầu độc ông chủ mình bằng cách tiêm một chất lạ vào bụng ông. Người tài xế khẳng định chính ông Neruda đã nói với ông điều này trước khi chết. Mặc dù các nhân chứng, bao gồm cả vợ của Neruda, đã lên tiếng bác bỏ tin đồn, nhưng một số người vẫn không tin rằng ông chết vì bệnh.
 
Cuối cùng, những nghi ngờ lẫn cáo buộc đã dẫn đến một cuộc điều tra chính thức. Năm 2013, một thẩm phán đã ra lệnh khai quật hài cốt của nhà thơ và gửi các mẫu vật đến các phòng thí nghiệm di truyền học pháp y. Theo báo cáo được công bố 7 tháng sau đó, các chuyên gia quốc tế và Chile đã loại trừ khả năng ông chết do bị đầu độc. Báo cáo cho biết không tìm thấy “tác nhân hóa học” nào có thể liên quan đến cái chết của ông Neruda và “không có bằng chứng pháp y nào” chỉ ra nguyên nhân cái chết khác ngoài căn bệnh ung thư tuyến tiền liệt.
 
Tuy nhiên, vào năm 2017, một nhóm điều tra viên pháp y tuyên bố rằng ông Neruda không chết vì ung thư. Họ đã tìm thấy dấu vết của một loại vi khuẩn có khả năng có độc ở một trong những chiếc răng hàm của ông. Những phát hiện mới đã được chuyển cho tòa án và nhóm điều tra được yêu cầu xác định nguồn gốc của vi khuẩn.
 
Trong báo cáo cuối cùng được đưa ra cho một thẩm phán Chile hôm Thứ Tư, 15 tháng 2 năm 2023, các khoa học gia trong nhóm điều tra cho biết các bằng chứng về hoàn cảnh ủng hộ cho giả thuyết Neruda bị sát hại. Năm 1981, chế độ độc tài quân sự thường đầu độc các tù nhân bằng loại vi khuẩn chết người, tương tự như chủng vi khuẩn được tìm thấy trên người ông Neruda. Tuy nhiên, nếu chỉ có vậy mà không thể tìm thêm bằng chứng nào khác, họ sẽ không thể xác định nguyên nhân cái chết của ông Neruda.
 
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết “Who Was Pablo Neruda and Why Is His Death a Mystery?” của Flávia Milhorance, được đăng trên trang NYTimes.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Những tia nắng hồng cuối cùng đã tắt trong ánh hoàng hôn chiều tà nhưng bầu trời vẫn trong sáng từ một thứ ánh sáng huyền bí; vẫn chưa có vì tinh tú nào xuất hiện, tuy nhiên màn đêm hôm nay hẳn là một trong những buổi chiều tối đẹp nhất mà cả thế gian này chưa từng bao giờ chứng kiến. Bên phía đại dương, nhìn như có vẻ tối tăm sẫm màu hơn dưới bầu trời rực sáng; bóng tối hoặc ánh màu phản chiếu không còn in trên nền đất liền màu nâu đậm nữa; toàn bộ phần vách đã gần đó giờ chỉ còn là một khối khổng lồ, là một khối đá hoa cương khô khan chênh vênh, nguy hiểm. Con đường mòn gồ ghề trắc trở chạy men theo bờ biển dọc theo những tảng đá, nơi đó những con sóng rì rầm đập vào không ngớt, nơi đây những người dân làng có việc cần hoặc những người chăn cừu đưa bọn cừu hoang dã chưa được thuần thục đã dẫm đạp lên ngàn vạn lần.
Cuốn sách này không ở đâu có, kể cả thư viện quốc hội Hoa Kỳ. Chỉ bạn có và người Việt có. Nhưng bạn không thể đọc hết hơn ngàn trang trong một lần. Chỉ đọc bài nào vừa ý. Những bài khác cứ hẹn tái ngộ, vì, có khi, một hôm bạn sẽ thích một bài mà bạn không thích trước đây. Có thích mới muốn đọc nhưng thích là động lực tâm tình giới hạn trí tuệ.
Trong số khách đến viếng chùa, có người con gái chừng độ tuổi trăng tròn, không son phấn điểm trang, nhưng nàng trông thật diễm lệ. Nàng nâng niu từng cành hoa mẫu đơn. Trong lúc sơ ý nàng vướn gẫy một cành hoa. Người coi vườn bắt trói nàng đòi tiền chuộc tội.
Lần cuối, nghĩa là lần mới nhất, không phải là lần cuối cùng, tôi gặp Trương Vũ tại nhà của Trần Vũ, khi Trương Vũ ghé Quận Cam, trước khi anh bay lên Bắc California để thăm chị ruột của anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh. Lúc đó là, có lẽ năm ngoái. Lúc đó, mối giao tình của Trương Vũ và tôi đã trải rộng từ hơn ba thập niên, từ những ngày tôi còn ở Miền Đông Hoa Kỳ. Thời xa xưa, tôi gọi anh bằng tên là anh Sơn, anh Trương Hồng Sơn, khi nhìn anh như một nhà khoa học. Và nhiều năm sau, khi đọc nhiều bài viết của anh trên Văn Học và Hợp Lưu, tôi gọi anh qua bút hiệu là Trương Vũ. Rồi vài năm gần đây là nhìn anh như họa sĩ. Thời gian đã cho anh hiển lộ qua nhiều tài năng, và với rất nhiều tóc bạc. Nhưng nụ cười của Trương Vũ vẫn hiền lành, đôi mắt vẫn tinh anh, cử chỉ và thái độ vẫn luôn là từ tốn, cẩn trọng, dịu dàng.
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
Ông Tri vung tay hất đổ chén canh, vỡ nhiều mảnh trên nền nhà, tung toé mùng tơi và tôm khô. Ông đưa tay lên lần thứ hai, muốn tát vào mặt con rể. Anh nắm tay ông lại. Lòng tung tóe giận dữ. Ánh mắt giết người làm ông sợ hãi. Rụt tay lại. Quay mặt vào vách. Anh hít một hơi đầy, thở mạnh ra. Xả cơn giận. Đứng lên đi dọn dẹp. Những mảnh chén vỡ làm anh nhớ lại lần đầu tiên khi anh đến nhà thăm Lài, ông Tri đã giận dữ đập vỡ tách trà vì không muốn con gái ông quen biết với người nhìn bề ngoài trông giống du đảng, tóc dài và ăn mặc không tiêu chuẩn.
Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau.
Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường vào đầu thế kỷ XIX của khuyết danh chỉ đề cập tổng quát, được đề cập nhiều (Sau nầy có bài thơ của Nguyễn Bính nhưng không có gọi tên phố phường). Tác phẩm Hà Nội 36 Phố Phường của nhà văn Thạch Lam (1910-1942) ấn hành năm 1943 được phổ biến rộng rãi, được mọi người biết đến nếp sống, sinh hoạt… của Hà Nội xa xưa.
Nhà thơ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông. Ông là con út trong gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lập gia đình với nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915-1976). Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) thường gọi là bằng Thành Chung. Ông được học bổng tiếp tục đèn sách để thi Tú Tài bản xứ thì “Thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ. Năm 1943, ông xuất bản tập văn xuôi Đám Ma Tôi nhưng sau đó nổi tiếng với bài thơ Kỳ Nữ. Năm 1944, nhà thơ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, ông ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, và năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học.
Cha anh, ông Thụ, là một người trung bình về mọi phương diện. Ưa thích quyền lực nhưng không thỏa mãn. Quyền lực mà ông có nhiều nhất là đối với vợ con. Đứa con trai duy nhất, “Em à, số vợ chồng mình thật xui. Có một đứa con mà nó lại sống ở trên mây.” _”Còn hơn nó chết à?” Thú vui lựa chọn của ông Thụ là tập bắn súng. Súng trường, súng lục, súng nào ông bắn cũng giỏi. Đã đoạt một số giải thưởng bắn thi. Và dĩ nhiên, ông muốn truyền tài năng này cho con trai. Năm 17 tuổi anh đã đoạt giải quán quân về tầm bắn xa 200 mét. Khi anh đeo dây huy chương trên cổ, tay cầm cái cúp giải thưởng, cha anh đã ôm anh thật chặt, Hơi nóng ấm áp chuyền qua làn áo vải. Ông đã tìm thấy ông và anh đã tìm thấy cha. Tính tình cha con anh có nhiều chuyện khác nhau, từ sở thích đến suy nghĩ. Khi còn nhỏ, anh không thích ăn thịt. Ông ăn thịt bò bíp-tết hai ngày mỗi tuần. Mỗi lần ăn, ông cắt thịt ra từng mảnh nhỏ, bắt anh hả miệng và đút vào. _”Nhai đi.” Cùng một cách ra lệnh, _”Nghĩ đi”, _”Làm đi”, _”Thở đi” _Số