Người Đi Cùng Mệnh Nước Ngược Xuôi - Phạm Duy lên đường

10/02/202300:00:00(Xem: 1127)

(Tiếp theo kỳ trước – phần III, chương III, trong loạt bài tưởng nhớ Phạm Duy.)

Pham Duy_Tranh Thái Tuấn
Phạm Duy, tranh Thái Tuấn.

  

Phạm Duy từng là một anh bộ đội. Phạm Duy từng là một văn nghệ sĩ, một cán bộ văn hóa, phục vụ khắp các chiến trường những năm đầu cuộc Kháng chiến chống Pháp, từ 1945 đến 1951.
 
Chỉ sau hai năm đầu toàn dân cùng một lòng chung nhau chống Pháp đã bắt đầu có sự phân rã, vì lý do ý thức hệ tư tưởng chính trị. Những thành phần Quốc gia hiểu ra họ cần một môi trường chống Pháp không cùng hàng ngũ với Mặt trận Việt Minh. Từ 1947, đã có phong trào dinh tê [rentrer, trở về]. Người Quốc gia cùng nhau rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về thành phố, những vùng có quân Pháp chiếm đóng. Năm 1948 đã hình thành Lực lượng Quốc gia Việt Nam, có chính phủ và quân đội riêng, nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Vua Bảo Đại đứng đầu.
 
Điều đặc biệt Phạm Duy vẫn phục vụ trong hàng ngũ kháng chiến đến năm 1951 mới thực sự rời bỏ. Bước chân Phạm Duy từng ở Mặt trận Miền Nam, vùng Bà Rịa-Vũng Tàu, ra tới miền Trung du Bắc bộ, tận núi rừng Việt Bắc.
 
*
 
Vì sao Phạm Duy đi kháng chiến? Vì bấy giờ toàn bộ dân chúng một lòng đứng lên, một lòng hoan hỉ, Phạm Duy đi theo Tiếng Gọi chung từ lòng dân yêu nước. Năm 1946, Thực dân Pháp quay trở lại, kháng chiến bùng nổ, điều của lương tâm sai bảo, là “Cùng nhau chống Pháp”. Phạm Duy đã có mặt.
 
Thời khởi chiến, cùng là hoàn cảnh như Phạm Duy, những người là tướng tá, nhân vật cao cấp trong guồng máy Quốc gia sau này, thời Bảo Đại [1948-1955], và Đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm [1955-1963], trước kia đều là những người đã từng theo Mặt trận Việt Minh.
 
*
 
Tham khảo tiểu sử Phạm Duy, chúng ta biết: Năm 1945, sau khi từ giã gánh hát Đức Huy, Phạm Duy gia nhập Thanh niên Tiền phong, làm công tác văn nghệ rồi vào đội Võ trang Tuyên truyền. Cuối năm này, ông về Hà Nội. Đầu năm 1946 Phạm Duy tham gia một lớp huấn luyện quân sự cấp tốc rồi được đưa vào miền Nam tham gia kháng chiến. Tại chiến khu Bà Rịa-Vũng Tàu làm công tác thông tin, liên lạc và tiếp vận. Đầu mùa Thu năm 1946 ông bị thương ở cánh tay và được phép về Bắc. Phạm Duy ở Huế một thời gian rồi về Hà Nội khoảng cuối tháng 10/1946. Thời gian này, bài Về Miền Trung ra đời.
 
Ngày 20 tháng 12 ông ra Hà Đông, làm việc tại Đài Phát thanh bí mật; sau đó tham gia Đoàn Văn nghệ Giải phóng tại Sơn Tây rồi đi phục vụ văn nghệ qua Phúc YênVĩnh YênViệt TrìPhú ThọTuyên QuangYên BáiLào Cai. Ở Lào Cai, cùng với Văn Cao, Ngọc Bích, làm việc tại phòng trà Quán Biên Thùy [một cơ sở tình báo]. Sau đó ông cùng Ngọc Bích đến Bắc Cạn [qua Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên] khoảng tháng 10/1947. Ông làm việc cho Cục Chính trị, là cán bộ văn nghệ với cấp bậc đại úy. Cuối 1947 Phạm Duy từ Thái Nguyên qua Bắc Giang, tham gia đoàn văn nghệ do Hoàng Cầm thành lập, lưu diễn tại Bắc Giang, Cao BằngLạng Sơn. Năm 1948, không còn là văn nghệ sĩ của Cục Chính trị, ông đi phục vụ văn nghệ tại nhiều nơi, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Sơn Tây, Hà Đông. Phạm Duy vào Thanh Hóa, tham gia Đoàn Văn nghệ Quân đội Liên khu IV, trực thuộc Trung đoàn 304. Tại Thanh Hóa năm 1949, Phạm Duy cưới Thái Hằng, người chủ trì hôn lễ là tướng Nguyễn Sơn. Phạm Duy lại ra Việt Bắc. Năm 1950, tham dự Đại hội Văn hóa Toàn quốc. 1951 ông từ bỏ kháng chiến, vào sống hẳn tại Sàigòn. Đánh dấu bước ngoặt này, là bài “Bên cầu Biên giới” một bài ca nổi tiếng.
 
Ngừng đây soi bóng bên giòng nước lũ
Cầu cao nghiêng dốc bên giòng sông sâu
Sầu vương theo sóng xuôi về cuối trời
Một vùng đau thương chốn làng cũ quê xưa
 
Người đi chưa hết hương sầu lữ thứ
Hồn theo cánh gió quên tình xa xưa
Tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa
Mộng về đêm đêm khát vừng trán ngây thơ
 
"Em đến bên tôi một chiều khi nắng phai rồi
 Nắng (ư) ngừng bên chiếc cầu biên giới
Xa xa thoáng đàn trầm vô tư
Đâu đây dáng huyền đêm duyên mơ
 
Bên cầu biên giới
Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi
Sông nước xa xôi
Mây núi khắp nơi
Không tỏ một đôi lời...
 
Ôi giấc mơ qua
Mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên dòng sông Danube
Những đêm sáng sao
 
Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mài
Lòng tôi sao vẫn còn biên giới!
Lòng tôi sao vẫn ngừng nơi đây
 
Ôi dòng tóc êm đềm!
Ôi bể mắt đắm chìm!
Đời phong sương cũ, chỉ là thương nhớ
Mộng bền năm xưa
Chỉ là mơ qua!!!
 
Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoài Trung, Thái Hằng, Mai Hương, Thái Thanh [từ trái qua].
 
*
Từ 1945  đến 1951, Phạm Duy đã có một lượng tác phẩm đồ sộ. Cuộc Kháng chiến lửa nguồn, là tràng giang trôi chảy cảm hứng sáng tác nơi ông.
 
Không chỉ số lượng, Phạm Duy đã chinh phục lòng người qua dòng nhạc êm ả, giàu tâm sự, giàu hình ảnh sống thực, và trên hết là tình yêu quê hương, tình đồng bào. Ông mang lại sự bình thản, niềm vui sống ngay dưới ánh trời lửa đạn, từng ngày là chết chóc, đau thương, ngậm ngùi.
 
Thể tài đơn giản, bình thường trong những điều gần gũi. Những lối ngõ thường hằng, vụn nhỏ nhất trong sinh hoạt đời chung. Dưới ánh đèn dầu, mẹ ngồi khâu áo, cha đọc báo, phơi lúa dưới nắng vàng, người nông phu gánh lúa, mối tình nghèo, anh thương binh, bà mẹ chiến sĩ, cảnh chiều quê, anh lính tải thương, em bé chăn trâu, con đê, cánh diều…
 
Không có mặt những từ ngữ “bề thế, thời thượng”, những hữu thể, hư vô, hố thẳm, tha nhân, buồn nôn phi lý, những nan vấn triết học. Nhưng lời ca rất hàn lâm, gọn, đẹp. Ý tình tha thiết, êm đềm, trải rộng tình nhân gian. Đó là Phạm Duy.
 
Liệt kê một phần những sáng tác của Phạm Duy những năm đầu khánh chiến.
 
Nhớ người thương binh, Dặn dò, Nương chiều, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Người lính bên tê, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu, Bà mẹ Gio Linh, Nhớ người thương binh, Đường ra biên ải, Đoàn quân văn hóa, Nhớ người ra đi, Lập Chiến công, Rèn cán chỉnh quân, Thanh niên quyết tiến, Bông Lau rừng xanh pha máu, Người lính bên tê, Thiếu sinh quân, Quân y ca, Xuất quân, Dân quân du kích, Thu chiến trường, Ngày trở về, Tiếng hát sông Lô, Việt Bắc, Nhạc tuổi xanh, Đường Lạng Sơn, Đường chiều, Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya, Gánh lúa, Quê nghèo, Tình nghèo, Về miền Trung, Bên cầu Biên giới....
 
Dưới đây là một trong vô số bài của Phạm Duy được hát nhiều nhất trong vùng Kháng chiến. Có thể nó nói được nhiều tâm trạng của người dân một thời lửa đạn. Lời bài ca chính là một bài thơ.
 
Quê nghèo
[Bao giờ anh lấy được đồn tây]
 
1
Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre còm tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy

Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy...

Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió Đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê.

2
Làng tôi luôn luôn vươn vài đám khói
Những mái tranh buồn nhớ người
Xơ xác điêu tàn vì ai
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong nắng cười...

Bao giờ em trở lại vườn dâu, hỡi em
Để cho anh bắc gỗ, xây nhịp cầu (anh) bước sang
Bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai
Để em ra bến vắng, đón người người chiến binh.
 
*
 
Trần Văn Khê, một tài năng âm nhạc, chỗ thân thích với Phạm Duy, ông viết:
 
“Trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca dao, những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình."
 
Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ " nhạc sĩ"). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất "Phạm Duy", nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
 
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu "chiêu hồn nhạc" hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy "chiêu" được "hồn" ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng "mê" lối "chiêu hồn" của Duy rồi chăng? Thành công – đối với Duy mà nói – không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật.
 
Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau "chịu" đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian”. [Hết trích].
 
*
 
Có một điều đăc biệt, một thời cả trong vùng Việt Minh và vùng Pháp chiếm đều hát nhạc của Phạm Duy. Năm 1951 là chấm dứt thời Lãng mạn Kháng chiến, thời tương đối còn chút tự do trong việc sáng tác và truyền bá tác phẩm văn chương nghệ thuật. Đây cũng là lúc Nhạc Phạm Duy bị cấm phổ biến, vì ông cùng gia đình rời hàng ngũ kháng chiến để Về thành.
Trong bài viết về Nhà thơ Hữu Loan tôi có một đoạn viết về thời đầu chống Pháp mà tôi gọi là thời Lãng mạn kháng chiến:
“ Thời ấy, những năm đầu khởi chiến chống Pháp, [1946-1949] mọi thứ còn hoang mộng. Cả thảy một tình yêu nước nồng nàn, toàn dân một tình cảm ngây thơ trước những mưu đồ chính trị. Sinh hoạt xã hội, ý thức hệ đối kháng, chưa từng cay nghiệt như những tháng ngày nội chiến về sau. Thuở ấy, ảnh hưởng một nền văn hóa cũ hãy còn. Văn thơ, là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo của Tự Lực văn đoàn, là Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… âm nhạc với Thiên Thai, Suối mơ, Giọt mưa thu, Trăng mờ bên suối, Trương Chi…
Cách sống văn hoa lãng mạn của một lối sống trí thức tiểu tư sản hãy còn in đậm. Những cụm từ ngày nay đã trở nên sáo mòn cũ rích, nhưng buổi ấy là những “thanh âm” gợi cảm, gây mê cho bao thanh niên nam nữ trên đường trường chinh, những “Chiều biên khu, trấn thủ lưu đồn, sương biên thùy, chinh phu, chiến bào, sơn khê…”
 
Thấp thoáng dưới ánh trăng thôn dã là những bản nhạc chép tay chuyền cho nhau, những Dư âm, Nụ cười sơn cước. Tiếng hát Sông Lô. Cung đàn xưa, Làng tôi… Những thơ, Tây tiến, Đôi bờ…
 
Những lời thơ tiếng hát “lãng mạn” đã sáng tác tác trong thời gian này, và được phổ biến rộng rãi. Là, Màu tím hoa sim [Hữu Loan], Dư âm [Nguyễn văn Tý], Nụ cười sơn cước [Tô Hải] Nắng chiều [Lê Trọng Nguyễn]…
 
1952 Phạm Duy rời hàng ngũ, nhạc ông bị cấm, nhân thân bị kết tội phản quốc.
 
Nhân gian lâu dài về sau, hãy còn một Phạm Duy khác. Một Phạm Duy được Tự do và Hạnh phúc trùng tu.
 
(Còn tiếp)
 
– Cung Tích Biền

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Sau khi nhổ răng, tôi xin anh nha sĩ trẻ mấy cái răng chết, khá thê thảm, để mang về. Lần trước cũng vậy. Anh tỏ vẻ thông cảm. “Bác giữ làm kỷ niệm?” “Vâng. Chúng nó theo tôi bảy mươi mấy năm rồi. Chiến đấu giỏi lắm. Giữ xác lại để nhớ.” Đúng. Răng kề cận người hơn tình nhân. Ở với người trung thành hơn vợ. Nói cắn là cắn, nói nhai là nhai, nói nhe là nhe, nói ngậm là ngậm. Tuyệt nhiên vâng lời, không cãi cọ gì. Chỉ có già đi, lỏng chân, rồi vĩnh biệt.
Gần đây cô cũng hay nghĩ về người chồng xấu số. Đúng ra cô thấy anh trong những giấc mơ. Cô thấy anh và cô đi dạo tại những nơi chốn thơ mộng của vùng đất cố đô nơi cô sinh ra và lớn lên. Những giấc mơ lạ, bởi cô gặp anh và kết hôn với anh khi cô đã vào Nam. Anh là người miền Nam và không hề ra thăm miền đất đó bao giờ. Nhưng trong giấc mơ cô thấy cô và anh thật rõ, khi thì ngồi bên nhau trong ngôi nhà cổ của ba mạ cô ở khu Gia Hội, khi thì thơ thẩn bên bờ sông Hương gần ngôi trường Trung học thân yêu của cô, khi thì đứng dưới bóng mát ngôi nhà thờ uy nghiêm sừng sững trên một ngọn đồi.
Trong buổi tiếp kiến ban biên tập nguyệt san “Phụ nữ Giáo hội Thế giới” của báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, trong tuần qua, dịp kỷ niệm 10 năm thành lập, Đức Thánh Cha khích lệ mọi người và nói: “Phụ nữ có khả năng nói ba ngôn ngữ: lý trí, trái tim và đôi tay”. Có phải Đức Thánh Cha muốn nói: Đối với phụ nữ ba điều này là một: Một người phụ nữ thông minh họ có thể dùng đầu óc mình để thành đạt trong học vấn, trong nghề nghiệp nhưng đồng thời với trí óc thông minh, trái tim mẫn cảm, họ cũng dùng thêm đôi tay của mình để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ và đầy trí tuệ, đầy tình yêu.
Trên Văn Việt ngày 16 tháng 2 vừa qua, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (University of New South Wales, Sydney, Úc) cho biết một số độc giả trên mạng đã hiểu một cách sai lầm rằng câu “Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ” là thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Từ chuyện ngộ nhận ấy, nhiều vị viết lời bình luận rằng Vũ Hoàng Chương là một người sắt máu, chẳng khác gì Tố Hữu ngoài Bắc. Cũng qua câu trên, có người cho rằng thơ văn miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà cũng “máu me” lắm chứ chẳng nhân bản, nhân văn gì. Theo Giáo sư Tuấn, “Sự thật có lẽ không phải vậy, mà chỉ là một sự bịa đặt trong một cuốn tiểu thuyết, cuốn Ván Bài Lật Ngửa của tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý” (tức nhà văn, nhà biên khảo, Ủy viên Tuyên huấn Trung ương Trần Bạch Đằng). Giáo sư Tuấn cho biết là câu ấy không có trong bài “Lửa từ bi” của Vũ Hoàng Chương, và chụp lại bài thơ “Từ đây” trong tập thơ Hoa Đăng của thi nhân họ Vũ (Sài Gòn : Văn Hữu Á Châu, 1959) để chứng minh rằng câu thơ ghê gớm ấy cũng không có trong đó:
Trong tiểu thuyết HIỆP KHÁCH HÀNH, nhà văn Kim Dung kể chuyện về cuộc phiêu lưu của chàng trai trẻ Thạch Phá Thiên từ năm 12 tuổi, không cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn hữu, không học hành chữ nghĩa, không võ công, không tiền của, mà tình cờ lạc vào giữa chốn võ lâm giang hồ. Đọc xong bộ truyện, tôi tò mò muốn tìm hiểu bài thơ HIỆP KHÁCH HÀNH của thi hào Lý Bạch...
Ngày Xuân Phân là ngày chính giữa của mùa Xuân theo âm lịch và cũng là ngày đầu tiên của mùa Xuân ở Bắc bán cầu theo dương lịch (Vernal Equinox). Trong ngày này, thời gian của ban ngày và ban đêm bằng nhau, nói cách khác là âm dương cân bằng. Nhờ thế vạn vật bắt đầu sinh sôi nảy nở, hoa sẽ dâng hương cho niệm xuân tình. Trong một ngày lập xuân nhiều thế kỷ trước, Sư Huyền Quang [?] ngẫu nhiên bắt gặp hình ảnh một thiếu nữ bên song liền viết bài “Xuân Nhật Tức Sự”. Bài thơ tả người thiếu nữ đang thêu thùa, bỗng chim hoàng oanh líu lo từ lùm tử kinh bên ngoài khiến nàng ngừng mũi kim. Không tiếng lời vì xuân tràn trong ngỏ ý, ngoại cảnh cũng như tâm tư. Nói lời gì cũng bằng thừa khi mạch mới tràn dâng. Nụ đang chúm, không chỉ hoa, nụ còn là môi bung cánh sen, đỏ hường xuân thắm. Bởi vì bây giờ đã sang xuân. Xuân đang thì...
Ly dị, thông thường, bắt đầu bằng vết thương lòng. Những vết thương sâu đậm, máu chảy dai dẳng sẽ từ từ ẩn vào tiềm thức và ảnh hưởng vô thức hoạt động đưa ra những ý nghĩ về khuynh hướng ly hôn. Trong một số trường hợp, vết thương nhẹ, rướm máu sơ sài, nhưng bỗng dưng lớn chuyện, vì tự ái, vì tiếp tục tranh cãi, vì giận quá lỡ lời, vì bạo hành thiếu suy nghĩ. Từ đó, ly nước đã đổ xuống đất, làm sao để hốt lên? Trong một số trường hợp khác, có kẻ muốn ly dị vì nhiều lý do, từ tài chánh cho đến người thứ ba; từ xung đột trong đại gia đình đến thành công hoặc thất bại trên đường đời. Những trường hợp này vô cùng phức tạp, khó có thể giải thích cặn kẽ. Khó phân định lỗi phải. Tuy nhiên, có thể kết luận: Nếu yêu nhau đủ thì khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Nhà nhân loại học Paul Bohannan đưa ra lý thuyết về ly dị, trình bày sáu giai đoạn riêng biệt mà một cá nhân sẽ trải qua trên đường ly hôn. Bohannan xác nhận: sáu giai đoạn có thể xảy ra theo thứ tự khác nhau và với cường độ khác nhau
Buổi ra mắt tập thơ “Tháng năm là mộng đang đi” của Nguyễn Thị Khánh Minh đã hoàn tất, nhưng nhiều câu hỏi vẫn lơ lửng sau khi nhà thơ nổi tiếng này nói rằng ấn phẩm này có lẽ là tập thơ cuối cùng của chị. Không có lời giải thích rõ ràng vì sao tập thơ thứ 12 này có thể là ấn phẩm cuối cùng của chị, nhưng buổi ra mắt sách hôm 25/2/2023 tại một quán cà phê giữa Little Saigon đã để lại nhiều kỷ niệm trong những người yêu thơ tham dự.
Đã năm mươi năm trôi qua, nguyên nhân thực sự về cái chết của nhà thơ Pablo Neruda vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ đối với nhiều người trên thế giới. Ông đột ngột lìa đời sau cuộc đảo chánh năm 1973 của Chile. Pablo Neruda không chỉ là nhà thơ từng đoạt giải Nobel danh giá, mà còn là một trong những nhà hoạt động chính trị có ảnh hưởng nhất ở Chile. Pablo Neruda công khai theo chủ nghĩa cộng sản, thẳng thắn ủng hộ và làm việc trong chính quyền của Salvador Allende, vị tổng thống cánh tả của Chile, cầm quyền từ năm 1970 đến năm 1973.